PGS, TS. HỒ KHANG
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
Trong lịch sử cuộc
chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam (1954 - 1975), chiến dịch Plây Me - hoặc chiến
dịch thung lũng Ia Đrăng như một số sách báo thường viết, được biết tới như một
trận chiến đẫm máu giữa lực lượng chính quy của hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam
dân chủ cộng hoà vào mùa thu năm 1965 tại vùng thung lũng, dưới chân núi Chư
Pông ngút ngàn cây cối với những bãi cỏ rộng xen kẽ nương rẫy của đồng bào dân tộc rất thuận lợi cho việc đổ quân và ém
giấu lực lượng ở phía Tây Nam thị xã Plây Ku. Thời điểm diễn ra cuộc chiến
tranh, toan tính của mỗi bên cũng như mức độ quyết liệt của cuộc giao tranh này
và những tác động sau đó
của nó đã là những nhân tố tạo nên tính "cột
mốc" của chiến dịch Plây Me - một
chiến dịch đã làm "thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam" như
nhìn nhận của Ha-rôn G.Mo-rơ (Harold G Moore) và Giô-dép Ga-lô-uây (Joseph L
Galloway) trong cuốn sách Đã một thời chúng tôi là người lính...và trẻ trung1.
Xét trên phương diện
trực tiếp liên quan, năm 1965 là năm bản lề của cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam. Về mặt thời gian,
giữa năm 1965 trở về trước, Mỹ đã có 10 năm can dự trực tiếp vào cuộc chiến
tranh Việt Nam. Trong khoảng thời gian ấy, sự can dự của Mỹ còn "giấu mặt,
trá hình", chủ yếu bằng đô la, vũ khí, hệ thống cố vấn và lực lượng đặc
biệt Mỹ để xây dựng nên chính quyền và quân đội Sài Gòn, yểm trợ cho chính
quyền và quân đội này trong việc khủng bố những người yêu nước hòng đè bẹp cách
mạng miền Nam; biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ
quân sự của Mỹ, thành tiền đồn "chống Cộng"
ở Đông Nam Á. Về phía cách mạng miền Nam, 10 năm đó đã vượt qua bao thử thách
nặng nề, từng bước phục hồi và phát triển, miền Bắc xây dựng chế độ mới trong
điều kiện hoà bình, thu được những thành tựu to lớn, thực sự là "nền
gốc" bảo đảm cho sự phát triển vững chắc của cách mạng miền Nam, cho
sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước...
Trước sự phát triển
của cách mạng miền Nam, bước vào năm 1965, đi đôi với việc đẩy mạnh chiến lược
"chiến tranh đặc biệt" đến nấc cao - vượt qua mức lý thuyết và dự
tính ban đầu, đế quốc Mỹ đưa một số đơn vị Mỹ vào miền Nam và leo thang đánh
phá miền Bắc Việt Nam. Dẫu vậy, đến mùa hè năm 1965, chiến lược "chiến
tranh đặc biệt" mà Mỹ triển khai thực hiện ở miền Nam từ năm 1961 đã bị
phá sản. Với bản chất hiếu chiến, xâm lược và ngoan cố, Mỹ quyết định đưa nhanh
các đơn vị quân Mỹ và quân một số nước đồng minh của Mỹ vào trực tiếp tham
chiến ở miền Nam. Nhóm nghiên cứu đặc biệt do tướng Uy-lơ - chủ tịch hội đồng
tham mưu trưởng liên quân Mỹ đứng đầu, từng cam đoan với bộ trưởng quốc phòng
Mỹ Mắc Na-ma-ra và tổng thống Mỹ Giôn-xơn rằng: "Không có lý do gì khiến
chúng ta không thể thắng nếu đó là quyết tâm của chúng ta"1.
Quả thật, Mỹ đã dựa vào những nền tảng vững chắc vốn có của nước Mỹ về tiềm lực
và sức mạnh kinh tế, quân sự khổng lồ; về "truyền thống" chưa
hề bại trận một khi đưa quân ra ngoài biên giới tham chiến; về sự hậu thuẫn
mạnh mẽ của quốc hội Mỹ khi quốc hội này thông qua nghị quyết "vịnh Bắc
Bộ" - một "bản tuyên chiến đề trước ngày" mở đường cho
chính quyền Giôn-xơn ném con em nước Mỹ vào chiến trường Việt Nam. Cũng cần
phải thấy thêm rằng, khi quyết định đưa quân Mỹ vào miền Nam, nước Mỹ đã trải
qua một quá trình mà ở đó nền kinh tế liên tục tăng trưởng, quân đội được huấn
luyện tốt nhất và được trang bị những hệ vũ khí, phương tiện chiến tranh, thiết
bị chiến trường rất hiện đại... Vả lại cho tới lúc đó, mâu thuẫn Xô - Trung
chẳng những không được khắc phục mà ngày càng thêm gay gắt đã làm rạn nứt khối
đoàn kết xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Đế quốc Mỹ nhận thấy, đây là một nhân tố rất quan trọng,
cần phải và có thể lợi dụng để đưa quân vào Việt Nam...
Bối cảnh trên đây cho
thấy cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đang đứng trước một bước ngoặt mới,
phải đối diện với một tình thế rất hiểm nghèo. Toàn thế giới dõi theo tình hình
đang diễn biến ngày càng căng thẳng ở Việt Nam với sự lo âu rằng liệu Việt Nam
- đất nước nhỏ bé, thua kém Mỹ nhiều lần về tiềm lực, sức mạnh kinh tế và quân
sự có đương đầu được với cỗ máy quân sự khổng lồ và hung hãn của Mỹ không? Và
liệu cuộc chiến tranh này có được kiểm soát hay sẽ lan nhanh ra khu vực hoặc
trở thành chiến tranh thế giới? Với Việt Nam, trong khi kiên quyết giữ vững ý
chí, quyết tâm kháng chiến, vấn đề nóng bỏng và bức xúc đặt ra cho quân và dân
miền Nam Việt Nam trên chiến trường là phải khẩn trương tiếp cận để tìm hiểu
khả năng thực tế của quân Mỹ, qua đó, xây dựng cách đánh có hiệu quả, bảo đảm
cho việc đương đầu và đánh bại đội quân xâm lược này. Trận chiến đấu ở Núi
Thành cuối tháng 5 năm 1965 và ở Vạn Tường cuối tháng 8 năm 1965 là nhằm mục
đích đó. Tuy giành thắng lợi, giáng đòn phủ đầu mãnh liệt vào quân Mỹ nhưng do
diễn ra trên một địa bàn không rộng, thời
gian không dài, quy mô sử dụng lực lượng không lớn, đối tượng mới chỉ là lính
thủy đánh bộ nên những kinh nghiệm rút ra từ hai trận trên rõ ràng còn hạn chế.
Về mặt đó, chiến dịch tiến công Plây Me của chủ lực Mặt trận Tây Nguyên được mở
ra và giành thắng lợi đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết những vấn đề
bức xúc bấy giờ đang đặt ra cho quân và dân trên chiến trường miền Nam. Đây là
chiến dịch đầu tiên của bộ đội chủ lực ta nhằm vào sư đoàn kỵ binh không vận số
1 của Mỹ khi chúng hùng hổ đổ quân vào miền Nam, lập căn cứ ở An Khê (9-1965)
và đang rất khát khao "tìm diệt" chủ lực đối phương. Sư đoàn này là
"con đẻ" của bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra, sản phẩm của một
nước Mỹ giàu có về tiền của. Trong biên chế, sư đoàn có 15.787 sĩ quan, binh
lính, 434 trực thăng chở quân và trực thăng vũ trang, 1.600 xe các loại, 54
khẩu pháo hạng nặng 105mm, 78 dàn rốc két với 1.872 ống phóng cỡ 70mm lắp trên
trực thăng vũ trang... Sức cơ động
cao, hoả lực mạnh, khí tài trinh sát hiện đại là những ưu thế vượt trội, bảo
đảm cho sư đoàn này có khả năng "mà không một lục quân nào khác trên thế
giới ngày nay có được"1 như chính Mắc Na-ma-ra đã nhận xét.
Theo dõi sát diễn
biến tình hình, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định mở chiến
dịch Plây Me, đánh một đòn quyết liệt vào sư đoàn này của Mỹ. Không gian chiến
dịch là tứ giác Plây Me - Bàu Cạn - Đức Cơ - Plây Thê. Đồn Plây Me - nơi đồn
trú của một tiểu đoàn thuộc lực lượng đặc nhiệm quân đội Sài Gòn khoảng 600 tên
do các cố vấn Mỹ chỉ huy, được chọn làm điểm "khơi ngòi" nhử
các đơn vị sư đoàn kỵ binh không vận Mỹ thoát ly căn cứ, tới cứu viện, tạo điều
kiện cho ta tiêu diệt. Trong nghệ thuật quân sự, cách đánh này được gọi là
"vây điểm, diệt viện" - một lối đánh mưu trí và sở trường của
quân đội ta. Quả nhiên, khi Quân giải phóng nổ súng tiến công đồn Plây Me vào
đêm ngày 19 tháng 10 năm 1965, uy hiếp dữ dội cứ điểm phía Nam thị xã Plây Ku
thì chiều ngày 23 tháng 10 năm 1965, Bộ tư lệnh biệt khu 24 quân đội Sài Gòn
buộc phải sử dụng một lực lượng mạnh gồm 1 chiến đoàn có 3 tiểu đoàn bộ binh
cùng 1 chiến đoàn có 3 chi đoàn thiết giáp tới cứu nguy. Thế nhưng, chính lực
lượng cứu viện này lại bị lọt ngay vào trận địa phục kích của ta và bị đánh tơi
tả khiến toàn bộ chiến đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp bị tiêu diệt hoàn toàn, 86
xe quân sự của địch bị ta phá hủy. Tình thế đó, kích thích mạnh sự hung hăng
của Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 của Mỹ lúc bấy giờ đang đóng tại căn cứ An
Khê. Theo lệnh của Oét-mo-len - Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam, sư
đoàn này mở cuộc hành quân "Lưỡi lê bạc" đánh vào phía tây đồn Plây
Me hòng giải vây, đồng thời tiêu diệt các đơn vị chủ lực của ta hiện đang có
mặt tại địa bàn chiến dịch.
Từ ngày 29 tháng 10
đến ngày 9 tháng 11, địch cho trực thăng đổ quân theo lối "nhảy cóc",
sục sâu nhằm chuẩn bị bàn đạp, bãi đáp trực thăng, thực hiện đòn đánh bất ngờ
phía sau đội hình chiến dịch của ta. Phán đoán đúng ý đồ của địch, Bộ Tư lệnh Mặt
trận Tây Nguyên quyết định chọn thung lũng Ia Đrăng cách Plây Me khoảng 25km về
phía Tây làm điểm quyết chiến đánh trận then chốt tiêu diệt một bộ phận sinh
lực sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ. Một lần nữa, tài nghệ điều hành cuộc
chiến và sự dũng mãnh, mưu trí của bộ đội ta đã biến tính toán trên đây thành
hiện thực. Một loạt trận đánh ác liệt, diễn ra tại các vạt rừng, dưới lòng suối
cạn, ngay trên bãi đổ trực thăng, cả ở sở chỉ huy của lữ đoàn hành quân Mỹ...
Địch bị dồn xuống thung lũng Ia Đrăng. Tại đây, từ đêm 16 tháng 11 và ngày 17
tháng 11, giữa ta và địch đã diễn ra những trận đánh quyết liệt, trong đó, có
những trận "giáp lá cà". Trong nguy khốn, địch sử dụng cả máy bay ném
bom chiến lược B.52 rải thảm, dùng xăng đặc đốt các cánh rừng và sử dụng pháo
hạng nặng bắn 4.000 quả đạn yểm trợ cho quân Mỹ hoặc phi tang xác của đồng bọn.
Trước sức tiến công
mãnh liệt của ta, ngày 26 tháng 11 năm 1965, số lính Mỹ sống sót được trực
thăng vận đưa về căn cứ sư đoàn ở An Khê, bỏ lại đằng sau những vạt rừng xơ xác
bom đạn, những bãi lon hộp và khẩu phần thức ăn trống rỗng, xác lính Mỹ và xác
trực thăng, xe quân sự ngổn ngang... Chiến dịch Plây Me kết thúc. Ta tiêu diệt
gần hết và đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ, tiêu diệt 1
chiến đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp quân đội Sài Gòn, bắn rơi và phá hỏng 59 máy
bay lên thẳng, phá hủy 89 xe quân sự... Phía Mỹ thừa nhận, tại thung lũng Ia
Đrăng, có 824 lính kỵ binh không vận Mỹ bị chết và bị thương, trong đó hơn 300
binh sĩ tử trận. Chiến thắng Plây Me với sự mưu trí của Bộ chỉ huy điều hành
chiến dịch và sức tiến công dũng mãnh của người lính Bộ đội Cụ Hồ khiến kẻ thù
kinh sợ. Nhưng hơn thế, trận thắng này đã giáng đòn quyết liệt vào uy thế quân
đội Mỹ ngay từ những ngày đầu tham chiến, làm lung lay lý thuyết mới về chiến
tranh bằng máy bay lên thẳng của Mỹ khi nó được vận dụng vào Việt Nam, làm cho
một bộ phận trong giới lãnh đạo cao cấp Mỹ ngày đó, bắt đầu nản lòng. Sự nản
lòng đó được biểu hiện rõ nhất ở lời tuyên bố với giới báo chí của Mắc Na-ma-ra
sau khi ông ta nghe báo cáo trực tiếp về trận Ia Đrăng, rằng: "Cuộc chiến
tranh mà Mỹ theo đuổi ở Việt Nam sẽ là một cuộc chiến tranh lâu dài"1.
Điều này là hoàn toàn trái ngược với tính toán và kế hoạch chiến tranh ban đầu
của Mỹ. Nói cách khác, nhận thức trên đây của Mắc Na-ma-ra thực chất là sự thừa
nhận thất bại của chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" khi chiến lược
này mới được triển khai chưa đầy 6 tháng!
Về phía Việt Nam, qua
thắng lợi vang dội này, niềm tin và quyết tâm đánh Mỹ càng được củng cố trong
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trên cả hai miền Nam, Bắc; những kinh nghiệm
tích luỹ được làm phong phú thêm nền nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân
dân Việt Nam. Rõ ràng đó chính là một trong những cơ sở quan trọng để Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 12 (12-1965) đi tới nhận định: "Ngày nay,
mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân đội viễn chinh, lực lượng
so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Trong cuộc chiến tranh ngày
càng trở nên gay go ác liệt, nhưng nhân dân ta có cơ sở chắc chắn để giữ vững
và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để
đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch". Lịch sử cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước từ sau năm 1965 đã chứng thực điều đó.
1. Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội - 1993.
1. Tài liệu mật Bộ
Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Việt Nam Thông tấn xã phát
hành, Hà Nội - 1971, tập 2, tr.153.
1. Tin quân sự địch
1966 - 1968 (Tổng cục II, Bộ Quốc phòng).
1. Xem Ha-rôn G. Mo-rơ
và Giô-dép I. Ga-lô-uây: Đã một thời chúng tôi là những người lính…và trẻ
trung, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội - 1993,
tr.395.
So với trận Bầu Bàng 11/1965 : hai tiểu đoàn, hai chi đoàn thiết xa vận Mỹ (khoảng 2.000 tên) bị ta loại khỏi vòng chiến đấu, cùng với 39 xe (phần lớn là xe tăng, thiết giáp), tám khẩu pháo bị phá huỷ... thì sao ?
Trả lờiXóaNgày xưa đọc sử VN không hiểu sao Mỹ và VNCH lại có thể thua. Giờ đọc hồi ký của tướng Mỹ và VNCH thì đã hiểu tại sao họ thua. Tóm lại bằng 1 từ " dốt".
Trả lờiXóa