Sự kiện lịch sử Tết Mậu Thân 1968 tại miền Nam
Việt Nam, từ bao năm qua chẳng những đã trở thành một chủ đề gây tranh luận sôi
nổi của giới học thuật trong nước mà còn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà sử
học nước ngoài. Trong tác phẩm Giải phẫu
một cuộc chiến tranh, giáo sư sử học Mỹ G. Côncô từng nhận định Tết Mậu Thân 1968 là sự kiện “quan trọng
nhất và phức tạp nhất”[1]
của cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam.
Bốn mươi năm đã trôi qua, sự kiện lịch sử này
vẫn còn những nhận xét, đánh giá khác biệt trong giới sử học, mà một trong
những điều nổi lên là đi sâu tìm hiểu kỹ hơn nữa quá trình hình thành ý đồ chiến lược và mục đích đích thực của cơ
quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam trong việc mở cuộc tiến công lịch sử này -
cuộc tiến công táo bạo nhất: đồng loạt đánh vào toàn bộ các đô thị trên
toàn miền Nam!
Cuộc tấn công Tết Mậu thân bất ngờ và “khó
hiểu” đến nỗi ngay từ khi nổ ra, các sĩ quan tình báo của Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ
(MACV) cũng phải thú nhận rằng, nếu như bấy giờ họ nắm được toàn bộ kế hoạch
của cuộc Tổng tiến công chăng nữa, thì họ cũng sẽ “không thể nào tin được”, vì quả thực họ không tài nào hiểu nổi “bản chất” của hành động này[2].
Nhiều
tác giả Mỹ khi đề cập tới “Tết Mậu Thân” cũng tỏ ra lúng túng trong việc đoán
định mục tiêu mà phía Việt Nam đặt ra cho cuộc tiến công. Ví như G. C. Herring
trong cuốn Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, đã viết:
“Có nhiều khả năng là cuộc tổng tiến công đã được đề ra với tâm trạng khá lạc
quan. Nhưng không có dấu hiệu gì chứng tỏ
Hà Nội nghĩ là cuộc tổng tiến công sẽ mang tính quyết định”[3].
Gần
đây, trong luận án tiến sĩ Giữa những cơn
bão: Lịch sử thế giới và chiến tranh
Việt Nam 1968 - 1973, bảo vệ tại Đại học Yale (Hoa Kỳ), tác giả Liên Hằng
T. Nguyễn nhìn nhận: “Dù cuộc tiến công Tết Mậu Thân 1968 tạo ra bước ngoặt
then chốt trong cuộc chiến thứ hai ở Đông Dương, nhưng những tiến triển trong quá trình chuẩn bị và những quyết định của Bắc Việt Nam liên quan tới cuộc tiến công này vẫn chưa được làm sáng tỏ”. Theo tác giả, sở dĩ có tình hình đó là bởi: “Chiến
lược thận trọng của Hà Nội trong khoảng thời gian từ mùa Xuân 1967 đến đầu 1968 vẫn nằm trong vòng bí mật. Thiếu
những tài liệu chính thức liên quan đến Tết Mậu Thân, đã có rất nhiều những
cuộc tranh luận nổ ra về căn nguyên, mục đích. Những sử sách của Việt Nam và
phương Tây hiện thời chỉ đưa ra những câu trả lời hạn chế”[4].
Ở Việt Nam, trong các
cuộc hội thảo và sách báo viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phần đông
các nhà nghiên cứu đều nhất trí nhận định: trong Tết Mậu Thân, quân và dân miền
Nam đã giành thắng lợi to lớn. Tuy nhiên do mang những kết quả đạt được và tính đếm những tổn thất của Quân giải
phóng trong và sau “Tết” làm hệ quy chiếu để so sánh với mục tiêu chiến lược đề
ra ban đầu, có ý kiến đã không ngần ngại cho rằng cuộc Tổng tiến công Tết Mậu
Thân đã mắc những sai lầm do chủ quan, đánh giá không đúng tương quan lực
lượng. Thậm chí, một số người còn khẳng định: “Tết Mậu Thân 1968 đã không tạo
được một bước phát triển đi lên của chiến tranh cách mạng miền Nam, không thay
đổi được cục diện chiến trường có lợi cho ta, mà còn làm cho cục diện đó xấu
hơn năm 1968. Cũng có thể nói rằng, nó đã tạo nên một bước tạm thời đi xuống
của cục diện chiến trường miền Nam, buộc quân và dân ta phải phấn đấu gian khổ,
bốn năm sau mới phục hồi lại được”[5].
Theo Trần Văn Trà, cho đến nay không phải đã hết ý kiến cho rằng “Tết Mậu Thân
là một thất bại của ta. Ngay như các cấp của ta tại chiến trường sau Tết Mậu
Thân phải đối phó gay go với phản kích, bình định, với kế hoạch Phượng Hoàng,
cũng không thấy hết thắng lợi; nghi ngờ sự giải thích ở trên”[6].
Từ những điều trình
bày trên đây, căn cứ vào các nguồn tư liệu hiện có liên quan tới quá trình
hoạch định cuộc tổng tiến công, trong đó có những tư liệu mới xuất hiện, bài
viết của chúng tôi hy vọng góp phần làm rõ thêm ý đồ chiến lược của đòn tiến
công Tết Mậu Thân 1968.
*
* *
A. ĐÔI ĐIỀU NHÌN LẠI
Nhìn
lại lịch sử từ 1967 trở về trước, có thể thấy rằng, trong suốt quá trình lãnh
đạo quân và dân ở cả hai miền Nam- Bắc trong những năm kháng chiến chống Mỹ,
không bao giờ Đảng LĐVN có ảo tưởng thắng Mỹ - cũng như với Pháp trước kia,
trên thế áp đảo về sức mạnh quân sự thuần túy.
Năm 1962, khi phân tích tình
hình cách mạng Lào sau chiến thắng Nậm Thà, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn từng lưu ý
các lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam: “Đế quốc Mỹ phải thua nhưng có thể thua đến mức nào. Ta phải thắng nhưng thắng đến mức nào”. Từ đó, vấn đề THẮNG
MỸ ĐẾN MỨC NÀO đã thường xuyên xuất hiện trong nhiều bài nói, bài viết, điện
chỉ đạo của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, được Lê Duẩn đặt ra để suy nghĩ, “tính toán, đo lường cho chuẩn xác”.
Năm 1965, Nghị quyết Hội nghị
BCHTW Đảng lần thứ 12 khóa III (tháng 12/1965) đã chỉ ra phương hướng giành
thắng lợi trong chiến tranh cục bộ là: trên cơ sở tiếp tục quán triệt phương
châm đánh lâu dài, “cần cố gắng cao độ,
tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết
định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường Miền Nam”. Cần
lưu ý rằng, ngay ở nghị quyết này, khái niệm “giành thắng lợi quyết định” không bao hàm ý nghĩa tiêu diệt toàn bộ
lực lượng quân sự địch mà thực chất chỉ là “đè
bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, thực hiện mục tiêu về độc lập, tự chủ,
hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà”[7].
Năm 1967, trong thư gửi Khu
ủy Sài Gòn - Gia Định, ngày 1.7.1967, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn viết: “Phấn đấu
tiến tới Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa (TCK - TKN) là quyết tâm cách mạng
rất cao, là phương pháp cách mạng rất quyết liệt, rất triệt để của chúng ta.
Song mặt khác, chúng ta phải có sách lược
mềm dẻo và biết thắng với mức độ thích hợp”[8].
Chúng tôi xin lưu ý: cụm từ “Tổng công kích - Tổng
khởi nghĩa” đã xuất hiện từ ngày 1.7.1967. Từ đây, cần lần lại lịch sử
để tìm hiểu quá trình hình thành cụm từ này.
B. QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH CHỦ TRƯƠNG CHIẾN LƯỢC “TẾT MẬU THÂN”
Sau khi đánh thắng hai cuộc phản công chiến
lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 của quân Mỹ trên chiến trường, làm thất
bại một bước quan trọng chương trình “bình định” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn,
từ những tháng đầu của năm 1967, trên cơ sở phân tích tình hình mọi mặt có liên
quan và theo dõi sát diễn biến thực tế chiến trường, Quân ủy Trung ương và Bộ
Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam nhận thấy một tình thế mới có lợi cho mình,
bất lợi cho đối phương đã xuất hiện. Kế hoạch chiến lược Đông Xuân 1967 - 1968 lập tức được khởi thảo nhằm mục đích tận
dụng thời cơ đó để đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ tiếp tục phát triển.
Tháng 5.1967, cuộc họp
của Bộ Chính trị dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh đã đánh giá tình
hình, xem xét dự thảo kế hoạch chiến lược Đông Xuân 1967 - 1968.
Tháng 6.1967,
trên cơ sở nhận định những thắng lợi của quân và dân ở cả hai miền là to lớn,
toàn diện, làm thất bại một bước rất cơ bản chiến lược “chiến tranh cục bộ”,
đẩy Mỹ vào thế lúng túng, bị động cả về chiến lược lẫn chiến dịch, Hội nghị BCT chủ trương: “Trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nỗ lực chủ
quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương
đối ngắn”[9].
Nhưng tương đối ngắn là bao lâu? Chưa
ai có thể hình dung được. Nhưng rõ ràng là Bộ Chính trị đã thể hiện quyết tâm
rất lớn trong chủ trương tổ chức các trận đánh tiêu diệt từ 3 đến 5 lữ đoàn Mỹ,
3 đến 5 sư đoàn quân đội Sài Gòn. Xét về mặt cách làm, thì việc “định mức” thắng lợi như vậy là việc vẫn thường
thấy trước mỗi chiến dịch được mở ra trong các đợt tấn công quân sự trước đây;
có khác chăng là ở chỗ đến thời điểm tháng 6.1967 những chiến thắng ròn rã vừa
qua đã cho phép đưa ra “định mức” cao hơn.
Quán triệt tinh thần
Nghị quyết tháng 6.1967 của Hội nghị Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu đã cử cán
bộ tới các chiến trường, các mặt trận chỉ
đạo thí điểm cách đánh tiêu diệt gọn
các đơn vị quân Mỹ[10].
Đây được xem như một cuộc diễn tập nhằm thăm dò khả năng quân giải phóng trước
một đối thủ mạnh, được “trang bị tận răng” như quân đội Mỹ.
Câu hỏi đặt ra cho BTTM là: vào mùa Thu năm 1965, trong cuộc giao tranh với Sư đoàn kỵ binh không
vận số 1 của Mỹ tại thung lũng Ia Đrăng, chủ lực Quân giải phóng đã bao vây, tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn của sư đoàn
này, nhưng liệu rằng tới đây, có thể đạt được thắng lợi rất cao như dự
kiến của BCT, “đánh tiêu diệt từ 3 đến 5
lữ đoàn Mỹ, 3 đến 5 sư đoàn quân đội Sài Gòn” hay không?
Tháng 7.1967, trong khi BTTM đã cử cán bộ
tới các chiến trường, các mặt trận chỉ
đạo thí điểm cách đánh tiêu diệt gọn
các đơn vị quân Mỹ[11],
thì tại Tổng hành dinh, BCT đã có nhiều cuộc họp với lãnh đạo, chỉ huy các
chiến trường, với các ngành, các cấp có liên quan để cùng tính toán, bàn bạc,
cân nhắc, hoàn chỉnh dần từng bước chủ trương chiến lược đã đề ra tháng 6/1967.
Nhờ đó, kế hoạch chiến lược lại tiếp tục được bổ sung.
Kết quả từ các cuộc
họp tháng 7.1967 đã khiến BCT nhận rõ hơn nữa rằng, Nghị quyết BCT tháng
6.1967 đã đặt ra khả năng, giao cho “Tổ kế hoạch” lựa chọn :
a) Nếu cứ mở các đợt
hoạt động quân sự như trước, đánh
theo cách đánh cũ thì khó tận dụng
được thời cơ có lợi để tạo nên chuyển biến lớn trên chiến trường, cuộc chiến
vẫn sẽ diễn ra trong thế nhùng nhằng, giằng co.
b) Nhưng mặt khác,
trước đối thủ có hoả lực mạnh và dồi dào, tính cơ động cao, khả năng tiếp ứng
nhanh, lại chiếm uy thế áp đảo trên không, trên sông, trên biển như quân Mỹ thì
phương án bao vây để tiêu diệt lớn đội quân này - như đã
từng làm ở Điện Biên Phủ là không hiện thực.
Trong khi “Tổ kế
hoạch” còn chưa tìm được giải pháp thì một số lãnh đạo chủ chốt trong Bộ Chính
trị, Quân ủy Trung ương chủ trương: Đột
ngột chuyển hướng tiến công chiến lược của ta từ rừng núi, nông thôn đánh thẳng
vào sào huyệt địch ở đô thị trên toàn miền Nam[12].
Ngay lập tức, kế hoạch chiến lược mà BTTM đang triển khai được
hình thành lại.
Tháng 10
năm 1967, trong 5 ngày, từ 20 đến 24.10, BCT họp bàn cụ thể hơn về
chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968[13].
Đây là hội nghị rất quan trọng để quyết định kế hoạch tiến công táo bạo Tết Mậu
Thân lịch sử. BCT dành thời gian nghe Dự thảo kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967 - 1968 do Đại
tướng Văn Tiến Dũng thay mặt Quân ủy Trung ương trình bày, Báo cáo về tình hình địch của Cục 2, Về tình hình ta của BTTM về các kế hoạch tác chiến của
Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ.
Trên cơ sở thảo luận rất kỹ dự thảo và các báo cáo trên đây, BCT nhận
định: “ Mỹ đang thất bại lớn, vì có
tăng quân cũng không giải quyết được gì, mà tình hình càng bế tắc, càng bị cô
lập thêm, mâu thuẫn càng sâu sắc”. Tuy nhiên, “Mỹ còn rất ngoan cố… đang cố
gắng tăng cường lực lượng để giữ cho tình hình không xấu đi”[14].
Chớp thời cơ này, BCT quyết định một phương thức tiến công, một cách
đánh mới có hiệu lực cao: Bất ngờ và đồng
loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam.
Phải thấy rằng, đây là một quyết định rất táo bạo của Đảng LĐVN. Nếu
chỉ căn cứ vào tương quan lực lượng quân
sự thuần túy giữa hai bên trên chiến trường lúc bấy giờ thì sẽ không có
được chủ trương táo bạo ấy[15].
Vì thế, toàn bộ ý định chiến lược này được giữ bí mật nghiêm ngặt: a) không đưa
ra bàn bạc ở Trung ương; b) trong BTTM, chỉ ai được phân công làm
kế hoạch mới biết về chủ trương mới này.
Ngày 28.12.1967, BCT họp phiên đặc biệt, do Hồ Chí Minh chủ trì, chính thức thông qua
kế hoạch chiến lược năm 1968.
Tháng 1 năm 1968, Hội nghị BCHTW Đảng
lần thứ 14 họp, đã thông qua Nghị quyết tháng 12.1967 của BCT[16]
quyết định thực hiện TỔNG CÔNG KÍCH – TỔNG KHỞI NGHĨA để giành thắng lợi quyết
định cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Để
thực hiện quyết tâm chiến lược đó, BCT chỉ rõ: trên mặt trận ngoại
giao, cần có phương pháp và hình thức đấu tranh thích hợp và “phải mở đường cho địch đi vào thương lượng
theo hướng có lợi nhất cho ta”[17].
Phát biểu trong Hội nghị, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn lưu ý rằng, mặc dù Mỹ đang bị
động, đang lâm vào thế khó khăn, “nhưng
nó là kẻ mạnh… nên ta phải biết thắng nó”. Muốn thế, không thể đánh theo lối cũ, “mà phải
chuyển qua một giai đoạn mới, tức là giai đoạn TCK - TKN, có khả năng đè bẹp ý
chí xâm lược của nó; làm cho nó tan rã thực sự, buộc nó phải đi đến ngồi với ta,
thương lượng với ta”[18].
Như
vậy theo Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn, chủ trương mở cuộc Tổng tiến công Tết Mậu
Thân 1968 nhằm giáng một đòn quyết liệt và ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ
phải đơn phương ngừng ném bom miền Bắc, buộc phải đi đến ngồi đàm phán, thương
lượng chính là chủ trương “biết thắng Mỹ” vừa với sức ta[19],
mở ra một giai đoạn mới vừa đánh vừa đàm,
phù hợp với truyền thống quân sự Việt Nam.
Gần
20 năm sau, chúng ta bắt gặp những suy nghĩ như sự gợi ý phản biện cho công tác
nghiên cứu khoa học về sự kiện lịch sử nổi tiếng này của Ủy viên BCT Lê Đức
Thọ, khi nói chuyện tại Viện Lịch sử Quân sự về nhiều vấn đề, nhằm gợi ý để các
nhà nghiên cứu có thể viết cuốn sách Tổng
kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân sự. Về sự kiện Tết Mậu thân, Lê Đức Thọ viết:
“Bây
giờ tổng kết lại thì thấy: Ngày đó, nếu mục đích trong cuộc tổng công kích,
tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân mà chúng ta đề ra chỉ là đánh địch thiệt hại nặng, nhất là nhằm vào những vị trí ở
trung tâm đầu não địch để chúng phải ngồi
vào bàn đàm phán thì, ta có cần
phải mở cuộc Tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành chủ quyền như chúng ta đã đề
ra để đến nỗi bị tiêu hao quá nhiều lực lượng như thế không?… Vì thế, sau này
thảo luận về Tết Mậu Thân, có ý kiến cho rằng: chỉ cần mở một trận tập kích
chiến lược hoặc là một cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên cả ba vùng chiến
lược, nhằm mục tiêu như đã đề ra thì
cũng làm cho địch thiệt hại nặng nề và đủ
buộc địch phải xuống thang chiến tranh
và ngồi vào bàn đàm phán”[20].
C. MỤC TIÊU CHIẾN
LƯỢC TẾT MẬU THÂN
Trở
lên, chúng tôi đã trình bày tổng quát quá trình hình thành chủ trương mở cuộc
tiến công Tết Mậu Thân của các cơ quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam, trên cơ sở
đó, đi sâu hơn nữa vào việc tìm hiểu mục tiêu chiến lược đích thực của đòn tiến
công Tết Mậu Thân - 1968. Từ những gợi ý của Ủy viên BCT Lê Đức Thọ, chúng tôi
muốn nhìn lại một cách khái quát tình hình quân sự, chính trị ngoại giao của VNDCCH
từ 1965 đến 1968, ngõ hầu tìm một lời giải đáp.
Chúng
tôi nhận thấy rằng trong toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, những năm
từ 1965 đến 1968, về mặt quân sự và ngoại giao đã diễn ra như sau:
Về quân sự
a)
Phía Mỹ, cả ba quân chủng lục quân,
không quân, hải quân đã được huy động tối đa vào cuộc chiến hòng nhanh chóng khuất
phục ý chí kháng chiến của nhân dân Việt Nam[21].
Với tiềm lực và sức mạnh quân sự, kinh tế lớn hơn gấp nhiều lần, giới lãnh đạo
nước Mỹ ngày đó chắc tin cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ ở cả hai miền Nam, Bắc
Việt Nam sẽ dễ dàng đạt được mục tiêu chiến lược theo kế hoạch đề ra ban đầu trong khoảng thời gian ngắn. Những tháng
năm ấy, ở miền Nam, Mỹ có trong tay hơn một triệu quân (gồm quân Mỹ, quân một
số nước đồng minh của Mỹ và quân đội Sài Gòn), đã liên tiếp tung ra hai cuộc
phản công chiến lược (mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967), đánh ra các hướng
chiến trường, đánh sâu vào hệ thống căn cứ địa kháng chiến của cách mạng miền
Nam. Trên miền Bắc, không quân và hải quân Mỹ gia tăng hoạt động cả về quy mô
và cường độ, đánh phá dữ dội toàn bộ hệ thống mục tiêu quân sự và dân sự.
b)
Phía Việt Nam, trong khói lửa chiến
tranh, quân và dân trên cả hai miền vẫn bền gan chiến đấu, giữ vững chiến lược
tiến công, làm thất bại một bước quan trọng các mục tiêu chiến lược trong cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ, khiến cho Mỹ
không thể dễ dàng đạt được mục tiêu chiến lược đề ra ban đầu là giành thắng lợi
trong khoảng thời gian ngắn.
Về ngoại giao
Trong
những năm này, cả hai phía Mỹ và Việt Nam đều chú trọng đẩy mạnh các hoạt động
ngoại giao. Các hoạt động này được mỗi bên tính toán kỹ lưỡng, nhằm những mục
tiêu xác định, gắn chặt với nhịp độ chiến tranh và đều chịu sự tác động của sức
ép quốc tế và trong nước.
a)
Phía Mỹ: Một tài liệu lịch sử từ phía
Mỹ cho biết, “các quan chức Mỹ về sau tổng kết lại là từ năm 1965 đến năm 1967,
đã có tới 2.000 nỗ lực nhằm bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình. Không bên nào
tỏ ra thờ ơ với những nỗ lực như vậy, nhưng cũng không bên nào muốn có những
nhượng bộ cần thiết để biến các cuộc đàm phán thành hiện thực”[22].
b)
Phía Việt Nam: Nếu chính quyền Mỹ
chịu sức ép ngày càng tăng ở trong nước và trên thế giới, đã nhiều lần toan mở
đường đi vào thương lượng thì Việt Nam cũng đang trong hoàn cảnh phức tạp, phải
tính toán sao cho vừa giữ được độc lập chủ quyền, vừa tranh thủ được tối đa sự
ủng hộ của bạn bè quốc tế. Trong khi đó
-
“Do đánh giá cao sức mạnh của Mỹ, Liên Xô tìm mọi cách hướng Việt Nam đi vào
thương lượng với Mỹ khi điều kiện chưa chín muồi”[23].
Từ 1965 đến 1968, Liên Xô đã 24 lần truyền đạt ý kiến của Mỹ cho phía Việt Nam
về đàm phán.
-
Còn Trung Quốc, bằng suy nghĩ, kinh nghiệm của riêng mình, lại muốn thuyết phục
Việt Nam kiên trì đường lối trường kỳ đánh Mỹ…
Vì thế, một mặt, VNDCCH vẫn ra sức tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc,
nhưng mặt khác, vẫn phải kiên quyết giữ vững đường lối độc lập, tự chủ. Do vậy,
từ cuối 1966, đầu 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng LĐVN đã chủ trương tạo
điều kiện mở ra cục diện vừa đánh vừa đàm,
nghĩa là không ngả theo gợi ý cụ thể của cả Liên Xô và Trung quốc. Tại Hội nghị
Trung ương lần thứ 13 (1.1967), Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh trình bày
Đề cương báo cáo về công tác đấu tranh
ngoại giao, trong đó chỉ rõ: “Để đánh bại kẻ thù hết sức ngoan cố và xảo
quyệt là đế quốc Mỹ xâm lược, phải giữ vững quyết tâm cao độ, nắm vững phương
châm chiến lược, đồng thời phải biết
cách đánh thắng địch, vận dụng sách lược
khôn khéo, giành thắng lợi từng bước”[24].
Đó
là điều giải thích vì sao nếu như từ 1966 trở về trước, lập trường của phía
Việt Nam là Mỹ phải rút quân ra khỏi miền Nam, chấm dứt hoàn toàn mọi hành động
chống phá miền Bắc trước khi có bất cứ
cuộc nói chuyện nào giữa hai bên thì, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (
tháng1.1967), Đảng LĐVN mềm dẻo hơn trong sách lược, bắt đầu chủ trương hé mở
khả năng phía Việt Nam sẽ đi vào đàm
phán nếu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc, chứ
chưa bao gồm điều kiện Mỹ phải rút hết
quân ra khỏi miền Nam như trước đây. Tuy nhiên, để lường trước những vấn đề
sẽ nảy sinh do chủ trương mới, Hội nghị Trung ương 13 đã nêu rõ rằng, phải “có
kế hoạch vận động, giải thích, thuyết phục những nước anh em có thể nghi ngờ ta
thương lượng non, do đó tỏ thái độ
trực tiếp hoặc gián tiếp không đồng tình với ta; hoặc quá nặng về đàm phán giải
quyết vấn đề đi đến thúc ép ta sớm đi đến
giải pháp chính trị trong khi tình hình chưa chín muồi; cần hết sức tránh
không để quân thù lợi dụng sự bất đồng về
sách lược giữa ta và các nước anh em”[25].
Thế
nhưng, đáp lại thiện chí trên đây của phía Việt Nam, phía Mỹ vẫn kiên quyết đòi
“có đi có lại”, đưa ra điều kiện buộc VNDCCH phải công khai cam kết không lợi dụng việc Mỹ ngừng ném bom để chi
viện cho miền Nam. Phía Mỹ đưa yêu sách như vậy, khác nào đặt kẻ xâm lược
và người bị xâm lược ngang nhau, thể hiện rõ lập trường cho rằng “miền Bắc xâm
lược miền Nam(!)”. Thư của Tổng thống Mỹ Giônxơn gửi Hồ Chí Minh ngày
8.2.1967, đã thể hiện rõ sự cứng rắn của Mỹ[26].
Thực
vậy, Tổng thống Mỹ Giônxơn vừa gửi thư tới Hồ Chí Minh ngày 8.2.1967
thì, ngày 14.2.1967, đã cho phép không quân và hải quân Mỹ nối lại các cuộc
đánh phá miền Bắc với quy mô và cường độ ngày càng mở rộng, ngày càng khốc
liệt. Đó là điều buộc Việt Nam phải tính toán, chọn lựa phương án giáng một đòn quyết
liệt, buộc Mỹ phải ngừng ném bom miền Bắc trong năm bản lề này. “Lẽ
phải thuộc kẻ mạnh”. Kinh nghiệm lịch sử của dân tộc cho phép rút ra bài học
đó. Vì vậy, Việt Nam muốn hòa bình, muốn
đàm phán, nhưng không thể ảo tưởng đàm phán trong thế yếu mà ngược lại chỉ có
thể đàm phán trên thế thượng phong, thế áp đảo về quân sự.
Đây
là bài toán vô cùng nan giải bởi vì tương quan lực lượng khi BCT và Quân ủy
Trung ương quyết định “Tết Mậu Thân” như sau:
-
Về phía Mỹ, lực lượng quân sự địch
trên chiến trường đang tới đỉnh cao - hơn một triệu hai mươi vạn quân chủ lực;
bộ máy chiến tranh vẫn còn hiệu lực; tiềm lực chiến tranh vẫn rất dồi dào; ý
chí xâm lược của giới lãnh đạo Oasinhtơn chưa bị lung lay.
-
Về phía Việt Nam, đến thời điểm ấy,
chỉ có 27 vạn bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương Quân giải phóng trên chiến
trường miền Nam.
Cần
nhấn mạnh một điều tưởng như mâu thuẫn là, tại sao khi bàn về mối tương quan
lực lượng giữa ta và địch, ngày 24.10.1967, Hội nghị BCT đã nhận định
rằng với một tương quan lực lượng quá chênh lệch như vậy thì dù cho“đánh vào thị xã mà giữ lại (thì) ta cũng
chưa làm được”; “khả năng đánh tiêu
diệt của ta còn yếu”, mà mặt khác, lại đi tới quyết tâm mở cuộc Tổng công
kích - Tổng khởi nghĩa? Ấy là vì Bộ Chính trị đã nhất trí nhận định, “Mỹ còn
rất ngoan cố… đang cố gắng tăng cường
lực lượng để giữ cho tình hình không xấu đi”[27],
để yên ổn đón chờ năm bầu cử, rồi sẽ tiếp tục theo đuổi cuộc chiến. Điều đó có
nghĩa là Mỹ đang ở thế phòng ngự. Chớp thời cơ này, BCT quyết định mở
cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, không thể đánh theo lối cũ, theo
kiểu "tuần tự nhi tiến", đánh theo mùa, đợt"[28]
mà phải Bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh
vào các đô thị trên toàn miền Nam, nhằm “Làm thay đổi tình hình, thay đổi
cục diện, chuyển biến chiến lược” trên chiến trường, buộc Mỹ phải
ngồi vào bàn đàm phán[29].
Tháng 1 năm 1968, Hội nghị BCHTW Đảng lần
thứ 14 họp, đã thông qua Nghị quyết tháng 12.1967 của Bộ Chính trị,
quyết định thực hiện TỔNG CÔNG KÍCH - TỔNG KHỞI NGHĨA giành thắng lợi quyết
định cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Để
thực hiện quyết tâm chiến lược đó, BCT chỉ rõ: trên mặt trận ngoại
giao, cần có phương pháp và hình thức đấu tranh thích hợp và “phải mở đường cho địch đi vào thương lượng
theo hướng có lợi nhất cho ta”[30].
Phát biểu trong Hội nghị, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn lưu ý rằng, mặc dù Mỹ đang bị
động, đang lâm vào thế khó khăn, “nhưng
nó là kẻ mạnh… nên ta phải biết thắng nó”. Muốn thế, không thể đánh theo lối cũ,
“mà phải chuyển qua một giai đoạn mới, tức là giai đoạn TCK - TKN, buộc
nó phải đi đến ngồi với ta, thương lượng với ta”[31].
Khi nói “chúng ta không
thể đánh theo lối cũ” là Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đã một lần nữa tâm đắc
với ý kiến từ các cuộc họp tháng 6.1967 đã khiến BCT nhất trí, đó là: nếu cứ
mở các đợt hoạt động quân sự như trước, đánh theo cách đánh cũ thì cuộc chiến vẫn sẽ diễn ra trong thế nhùng nhằng,
giằng co, khó có thể tạo nên chuyển biến lớn trên chiến trường; còn phương án
bao vây để tiêu diệt lớn đội quân này như đã từng làm ở Điện Biên Phủ là
không hiện thực.
Vì
thế, chúng tôi cho rằng kế hoạch Tổng tiến công Tết Mậu Thân được khởi xướng,
là nhằm giải đáp bài toán của lịch sử trên đây. Do đó, chúng tôi không tán
thành ý kiến của một số tác giả cho rằng, chỉ cần mở một trận tập kích chiến
lược hoặc là một cuộc tiến công chiến lược trên cả ba vùng thì cũng làm cho địch
thiệt hại nặng nề và đủ buộc địch phải
xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn
đàm phán[32].
Nghiên cứu kỹ Biên bản Hội nghị BCT Bàn về kế hoạch chiến lược mùa thu: TCK - TKN
Đông Xuân Hè 1967 - 1968, Nghị quyết của cơ quan chỉ đạo chiến lược cũng
như một số bài nói, bài viết của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân đội lúc
bấy giờ, chúng tôi nhận thấy quả thật chủ trương chiến lược táo bạo của Nghị
quyết tháng 12.1967 BCT thực hiện TỔNG CÔNG KÍCH - TỔNG KHỞI NGHĨA đã
thấm tới từng câu chữ, chẳng hạn:
Trường
Chinh cho rằng cần phải “tranh thủ thời cơ, tích cực cuẩn bị để tiến hành CK
- KN làm thay đổi tình hình, thay đổi cục diện, chuyển biến chiến lược, thực
hiện các Nghị quyết của TW bằng CK - KN…"; Thủ tướng Phạm Văn Đông
cũng “đồng ý nhất loạt CK - KN ở các khu trọng điểm, các nơi khác làm được
như thế nào phải hết sức làm”; Lê Đức Thọ phát biểu: “Tóm lại, ta đã tạo ra điều kiện chín muồi CK và KN”…; Tố Hữu cho rằng, “kế hoạch của ta dựa trên
đánh giá tình hình địch - ta, vì vậy kế hoạch của ta có cơ sở vững chắc… vì vậy
có nhiều khả năng ta chắc thắng; Lê
Thanh Nghị tuy đã lưu ý “công tác chuẩn bị còn nhiều vấn đề cần phải giải
quyết để chuẩn bị cho quần chúng, qua báo cáo thấy khu trọng điểm còn yếu… về
CK thì cứ làm, song về KN ở khu trọng điểm Sài Gòn nếu chuẩn bị không đầy đủ mà
cứ làm thì phải cân nhắc kỹ, vì làm không chắc thì sau đó còn quần chúng thì sẽ
thế nào? Nói như vậy là để chuẩn bị thật kỹ cho KN ở khu trọng điểm”… nhưng
vẫn hoàn toàn “nhất trí với bản báo cáo của Quân ủy TW.
Tựu
chung, ý tưởng của các lãnh đạo cấp cao trong cuộc họp này đều gặp gỡ, đi đến
hoàn toàn nhất trí với chủ trương TCK - TKN nhằm tập trung sức mạnh tổng hợp
của chiến tranh cách mạng miền Nam, kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu
tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, nhằm vào toàn bộ mục tiêu hiểm yếu của địch trên
chiến trường, đặc biệt bằng cách đánh
hiểm, đánh vào yết hầu, đánh vào tim óc của địch, vào thời điểm nhạy cảm nhất trong đời sống chính trị của nước Mỹ, buộc
giới lãnh đạo Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán, mở ra một giai đoạn mới - giai đoạn vừa
đánh vừa đàm, nhằm kết thúc cuộc chiến theo truyền thống quân sự Việt
Nam[33].
* *
*
*
Tết
Mậu Thân và tác động rộng lớn của nó đã hiện thực hoá mục tiêu chiến lược này
của cơ quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam về các mặt sau đây:
1. Phơi bày toàn bộ quá trình thất bại của Mỹ
trên chiến trường cả về quân sự, chính trị; sự bất lực của một đạo quân đông
tới gần 1 triệu 30 vạn, được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện
đại trước sức tiến công và cách đánh của đối phương.
2.
Làm lộ rõ những sai lầm về chiến lược cũng như cách thức điều hành chiến tranh
của giới lãnh đạo Oasinhtơn và giới tướng lĩnh Mỹ trên chiến trường.
3.
“Tết” còn là sự biểu dương ý chí, nghị lực, sức mạnh và nghệ thuật điều hành
chiến tranh của phía Việt Nam; làm bộc lộ những giới hạn trong sức mạnh quân
sự, kinh tế của Mỹ; làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới chiến lược toàn cầu mà Mỹ
theo đuổi từ lâu[34].
4.
Vì lẽ đó, cho dù Mỹ là một nước lớn, một nước chưa hề bại trận trong lịch sử
200 năm lập nước, nhưng “Tết Mậu Thân 1968” đã gây nên những chấn động dữ dội
giữa lòng nước Mỹ, khiến cho đông đảo các tầng lớp xã hội Mỹ - kể cả các quan
chức cấp cao, các nghị sĩ, các tập đoàn tài phiệt đầy thế lực, phải thay đổi
quan điểm, không còn hậu thuẫn cho chính sách chiến tranh của chính quyền
Giônxơn nữa.
5.
Và cuối cùng, tất cả những điều đó đã buộc Tổng thống Mỹ Giônxơn, vào đêm
31.3.1968, chẳng những đã phải công khai tuyên bố: Mỹ đơn phương chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc (từ vĩ tuyến 20
trở ra), sẵn sàng cử đại diện đi vào đàm phán với chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, mà hơn thế, còn quyết định rút dần quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam
khi chưa một mục tiêu nào của cuộc chiến tranh này được thực hiện. Việc
trút bỏ gánh nặng chiến tranh xuống vai chính quyền và quân đội Sài Gòn - một
lực lượng vốn đã bại trận trước khi quân Mỹ buộc phải tham chiến và ngày càng
phụ thuộc vào sự hiện diện của quân Mỹ thì, về thực chất, đã làm cho Mỹ phải
phụ thuộc vào chính kẻ đã và đang phụ thuộc vào mình. Đây là đảm bảo cho
thắng lợi cuối cùng của nhân dân Việt Nam.
Với
tất cả những lý do đó, cho dù sau “Tết”, cuộc chiến vẫn còn kéo dài và rất
quyết liệt - phải 5 năm sau Mỹ mới rút hết quân và 7 năm sau, chính quyền Sài Gòn
mới sụp đổ hoàn toàn, nhưng với quyết định ngày 31.3.1968 của Tổng thống Mỹ
Giônxơn, về thực chất, số phận cuộc chiến giữa đế quốc Mỹ và nhân dân Việt Nam
đã được định đoạt[35].
Trên
ý nghĩa này, vào năm 1971, khi nhìn lại “Tết Mậu thân”, Đôn Obớcđoiphơ đã viết:
“Vì cuộc chiến chưa đến hồi kết thúc và chung cuộc chưa rõ ràng, tầm quan trọng
đầy đủ về cuộc tiến công Tết Mậu Thân đang nằm ngoài tầm nhận thức của chúng
ta”. Nhưng dù vậy, “một điều xem ra đã rõ: Lịch sử sẽ chẳng quên đi sự kiện
này. Đối với mọi loại người và mọi cách suy nghĩ khác nhau, đây là một sự kiện có tính chất bước ngoặt, một trong những
bước ngoặt lớn trong thời đại chúng ta”[36].
Và, hai mươi năm sau, năm 1988, G. Côncô, giáo sư sử học Mỹ, đã khá xác đáng
khi nhận xét rằng, “Đảng [Lao động Việt Nam] hoàn toàn không được chuẩn bị” để
đón nhận “quy mô to lớn của tác động TẾT”[37].
Khi
một sự kiện lịch sử kết thúc, là lúc bắt đầu công việc của các nhà nghiên cứu.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nói: "Lịch sử, nói chính xác hơn, là hiện
thực lịch sử chỉ xảy ra một lần, duy nhất và không thể chữa lại nhưng nhận thức
lịch sử cũng như viết sử, có thể làm đi làm lại nhiều lần"[38].
Những năm qua, giới sử học trong và ngoài nước đã có nhiều công trình, nhiều
cuộc Hội thảo sôi nổi về sự kiện Tết Mậu Thân. Bằng những tư liệu hiện có trên
tay, qua bài viết này, chúng tôi muốn hệ thống lại theo mạch thời gian các Nghị
quyết, Chủ trương mà Bộ Chính trị từng bước cân nhắc, bổ sung để đi đến quyết
định táo bạo trong việc xác định mục tiêu chiến lược của đòn Tết Mậu Thân 1968.
Qua
những văn kiện này, càng thấy rõ hơn rằng, mục tiêu chiến lược trên đây đã được
sự nhất trí rất cao của tập thể BCT, quân ủy TW, và lãnh đạo chỉ huy các chiến
trường mà biểu hiện cao nhất là cuộc họp BCT tháng 12 / 1967 do đích thân Hồ Chí Minh chủ trì. Không khí nhất trí cao độ của tập thể BCT đã thể hiện
thành lời hiệu triệu qua bài thơ Chúc
mừng năm mới của Hồ Chí Minh:
Xuân này hơn hẳn mấy
xuân qua
Thắng trận tin vui
khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua đánh
giặc Mỹ
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta!
Download
toàn văn bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
[1] G. Côn-cô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh. Tập 1. NXB. QĐND, H, 1991, tr. 280.
[2] Dẫn
theo Đôn Obớcđoiphơ: Tết, NXB.
Tổng hợp An Giang trích dịch, 1988, tr. 80.
[3] G.C. Herring: Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, NXB. CTQG, H.1998, tr.240.
[4] PGS (Assistant Professor), Khoa Sử,
Trường Đại học Kentucky, Hoa Kỳ
[5] Tham luận của Cục
Khoa học quân sự BQP tại Hội nghị tổng kết cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân do
Viện lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức, tháng 3.1986. Tài liệu lưu tại Viện LSQS
VN.
[6] Trần Văn Trà: Thắng lợi và suy nghĩ về thắng lợi, Tạp
chí lịch sử quân sự, số tháng 2 năm 1988.
[7]
Nghị quyết Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 12 (khoá III), tháng 12.1965.
[8]
Lê Duẩn: Thư vào Nam, NXB. Sự thật,
H, 1985, tr. 52.
[9] Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, NXB. CTQG, H, 1995, tr.384-385.
10, 11 “Tháng 7 và tháng 8.1967, Cục tác
chiến Bộ Tổng tham mưu bắt tay xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược cho năm
1968 theo tinh thần nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6 và chỉ thị của QUTƯ. Điểm
lại hai năm đánh Mỹ, bộ đội ta đã diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh
của địch, trong dó có một số trận tiêu diệt gọn được những đơn vị cấp chiến
thuật của chúng, nhất là với quân nguỵ Sài Gòn. Song, nhìn chung ngoài tiểu
đoàn Mỹ bị tiêu diệt ở thung lũng Iađrăng tháng 11.1965, bộ đội ta chưa đánh
tiêu diệt gọn được một đơn vị Mỹ nào khác, vì hoả lực phi pháo địch mạnh, sức cơ động của chúng nhanh,
chỉ huy cấp chiến dịch của quân Mỹ thường không đi cùng với đơn vị trên địa bàn
tác chiến. Do đó, vấn đề nâng mức đánh tiêu diệt từng đơn vị cấp chiến dịch,
chiến lược khó có thể thực hiện được - nhất là đối với quân Mỹ”. (BQP - Viện
LSQSVN, Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 -1975. Tập V, .Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Nxb
CTQG, H. 2001, tr. 29, 30.
[12]
Lê Ngọc Hiền, Ghi nhớ về xây dựng
kế hoạch và triển khai thực hiện đòn tiến công chiến lược Mậu Thân 1968
(Bài đăng trong kỷ yếu Cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Mậu thân 1968, NXB. QĐND, H, 1998, tr.111-112.
Cũng theo Thượng tướng Lê Ngọc Hiền, tại bài viết in trong cuốn Lê Duẩn-một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo lớn của Cách mạng Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2002, tháng 9-1967, Văn Tiến Dũng gặp và lệnh cho “Tổ kế hoạch” làm kế hoạch đánh vào thành phố; sau này, Đại tướng Văn Tiến Dũng cho biết đó là đề xuất của Lê Duẩn.
Cũng theo Thượng tướng Lê Ngọc Hiền, tại bài viết in trong cuốn Lê Duẩn-một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo lớn của Cách mạng Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2002, tháng 9-1967, Văn Tiến Dũng gặp và lệnh cho “Tổ kế hoạch” làm kế hoạch đánh vào thành phố; sau này, Đại tướng Văn Tiến Dũng cho biết đó là đề xuất của Lê Duẩn.
[13] Trong cuộc họp quan trọng này, “Anh
Ba (tức Lê Duẩn), anh Văn (tức Võ Nguyên Giáp) vì lý do sức khoẻ vắng mặt đi
chữa bệnh nước ngoài. Hội nghị do Trường Chinh chủ trì” (Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị bàn về kế hoạch chiến lược mùa thu:
Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Đông -Xuân -Hè)
[14] Kết luận của Trường Chinh - Chủ trì
Hội nghị. Dẫn trong Biên bản Hội nghị Bộ
Chính trị bàn về kế hoạch chiến lược mùa Thu: Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa
Đông - Xuân - Hè 1967-1968.
[15] Nhiều tác giả khi đề
cập tới vấn đề này thường căn cứ vào tương quan so sánh lực lượng hai bên trên
chiến trường mà không để ý những chiều cạnh thuộc về tác động quốc tế đối với
hai phía cũng như quan điểm đánh giá lực lượng và so sánh lực lượng của Đảng LĐVN…
[16] Hội nghị họp vào ngày áp Tết, để
thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12 .1967, chủ trương mở cuộc tiến công
Tết Mậu thân 1968. Trong Hội nghị này, Lê Duẩn yêu cầu các đại biểu “tập trung
thảo luận thế nào để trước Tết ta về được” (Văn
kiện Đảng toàn tập tập 29, Sđd, tr, 40).
[17] Nghị quyết hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (1-1968). Dẫn trong Đảng cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29
(1968), Sđd.
[18] Bài gỡ băng ghi âm,
lưu Hồ sơ Văn kiện Hội nghị lần thứ 14, đăng trong Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 29, Sđđ.
[19] Cũng trong bài nói
tại Hội nghị Trung ương 14, Lê Duẩn cho biết, đã mấy lần nói với Lưu Thiếu Kỳ,
Brêgiơnhép là: “Chúng tôi biết khởi sự cuộc chiến tranh thì chúng tôi cũng biết
kết thúc cuộc chiến tranh”. Và khẳng định: “Ta độc lập, không nghe ai cả. Nói
rõ ràng như vậy, không mập mờ nữa đâu”.
[20]
Đồng chí Lê Đức Thọ nói về một số vấn đề Tổng kết chiến tranh và biên soạn
lịch sử quân sự. Tạp chí Lịch sử quân sự, số tháng 2 năm 1988.
[21] Vào dịp Tết Mậu Thân 1968, 40% số sư
đoàn chiến đấu của lục quân Mỹ, 50% số sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ, 50% số máy
bay chiến đấu, 30% số tàu chiến Mỹ bị gìm chân ở chiến trường Việt Nam. Cần nói
thêm rằng, trong chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ, châu Âu chứ không phải là châu á, và lại càng không phải là Việt
Nam, là hướng trọng điểm mà Mỹ luôn
phải giành ưu tiên. Thế nhưng trên hướng trọng điểm này, vào những thời điểm
căng thẳng, lực lượng quân đội Mỹ tập trung ở mức cao nhất cũng mới chỉ đạt tới
493.000 quân. Trong khi đó ở Việt Nam, vào đầu năm 1968, số quân Mỹ trên bộ và
số quân ngoài khơi bờ biển Việt Nam lên tới 800.000, tức gần gấp đôi số quân Mỹ ở châu Âu.
[22] G.C. Herring: Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Sđđ, tr. 210.
[23]
Ban
chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước -Thắng lợi và bài học, NXB. CTQG, H, 1995, tr.66.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28 (1967)
NXB. CTQG, H, 2003, tr. 124, 125.
[25] Trong những năm tháng ấy, mâu thuẫn
giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng gia tăng, kể cả sự bất đồng trong vấn đề
chiến tranh Việt Nam. Phát biểu tại Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (3.1968), Lê
Duẩn cho rằng: “Nếu trong lúc này, theo tôi, nếu có hội nghị quốc tế cả phe họp
lại, có cả ta, Liên Xô, Trung Quốc…, thì có lẽ nó khác rồi. Nhưng lúc này không
họp được”. (Văn kiện Đảng toàn tập,
tập 29, Sđd, tr..23).
[26]
Về bức thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 8..2.1967, G. C. Herring viết: “Với
tâm trạng điên khùng, Giônxơn quay lại lập trường cũ là Hà Nội phải ngừng thâm nhập
trước khi ông ta ngừng ném bom”.
Tại sao việc ngừng ném bom đối với phía Mỹ lại trở lên quan trọng đến vậy? Trả
lời cho câu hỏi này, các nhà nghiên cứu Mỹ chỉ rõ: “Cuộc ném bom được duy trì
không phải vì có người nghĩ rằng nó có hiệu lực mà Giônxơn cho rằng, nó cần
thiết để làm yên lòng một số phe phái trong nước; và vì rằng, ngừng ném bom có
thể được coi là một biểu hiện của sự yếu kém” (G. C. Herring: Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ,
Sđđ, tr. 215, 229).
[27]
Kết luận của Trường Chinh chủ trì Hội nghị. Dẫn trong Biên bản Hội nghị Bộ
Chính trị bàn về kế hoạch chiến lược mùa Thu: Tổng công kích-Tổng khởi nghĩa
Đông-Xuân-Hè 1967-1968, Tư iệu đã dẫn.
[28] Đại tướng Văn Tiến Dũng, Thành công
nổi bật về chỉ đạo chiến lược sáng tạo tuyệt vời của tư duy quân sự Việt Nam, in
trong Kỷ yếu Hội thảo Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Sđd,
tr.40.
- "Khi chuẩn bị xây dựng kế hoạch,
Tổng Tham mưu trưởng có chỉ thị gợi ý cho Tổ kế hoạch Cục tác chiến, BTTM:
"Phải thay đổi cách đánh tạo cho được đòn tiến công có ý nghĩa
chiến lược. Nếu cứ làm kế hoạch tác chiến theo cách đánh trước đây, kiểu
"xuân thu nhị kỳ" thì chưa biết lúc nào ta mới đánh bại được
địch" (Thượng tướng Lê Ngọc Hiền, Ghi nhớ về xây dựng kế hoạch và triển
khai thực hiện đòn tiến công chiến lược Mậu Thân 1968, trong cuốn Kỷ yếu
Hội thảo Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Sđd, tr.111).
[29] Biên
bản Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10.1967, Tlđd.
[30]
Nghị quyết hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 14 ( tháng 1.1968). Dẫn trong: Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
tập 29 (1968), NXB. CTQG, H,.2004. tr.63
[31] Văn
kiện Đảng toàn tập, tập 29, Sđd, tr.23
[32]
“Chỉ nên đánh giá thắng lợi của Tết Mậu thân ở mức chỉ là một trận tập kích lớn
thôi, một trận tập kích giành được thắng lợi lớn (Trần Độ: Thắng
lợi và suy nghĩ về thắng lợi, Tạp chí LSQS, số tháng 2.1988).
- “Nếu có dự kiến chủ trương sẽ chuyển hướng
ngay khi tình hình đã thay đổi, thì cách đánh sẽ khác, sẽ là cuộc tiến công
chiến lược Xuân 1968, mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược Tết Mậu thân” (Hoàng
Văn Thái: Phát biểu kết luận tại Hội nghị khoa học tổng kết các chién dịch
trong kháng chiến chống Mỹ - từ ngày 1 đến ngày 8.3.1986)
[33]
Liên quan tới ý đồ
chiến lược của đòn tién công Tết Mâu thân, trong tác phẩm Bước ngoặt lớn của
cuộc KCCM (Nxb Sự thật, H.1989), Đại tướng Văn Tiến Dũng cho biết, vào giữa
năm 1967, khi thảo luận kế hoạch Đông Xuân 1967 - 1968, “Vấn đề dặt ra là ta
phải có nỗ lực rất lớn, giáng cho địch một đòn mạnh kết hợp với sự khéo léo về
sách lược và biết thắng với mức độ thích hợp, khiến địch từ chỗ ngập ngừng muốn
ra đến chỗ buộc phải rút ra và có lối ra có thể chấp nhận được” (tr,191). Tại
Hội nghị Trung ương 14 (1.1968), Lê Duẩn chỉ rõ: “Lịch sử Việt Nam ta đánh giặc
rồi kêu gọi giặc; đánh mãi mãi không được. Nguyễn Trãi trước kia (làm) như vậy.
Bây giờ chúng ta cũng làm như vậy. Vì nó là đế quốc mạnh, cho nên ta phải biết
thắng nó” (Văn kiện Đảng toàn tập,
tập 29, Sđd, tr.37,38).
[34] Khi Tết Mậu Thân nổ ra, Thượng nghị
sĩ Mỹ Xtennít - Chủ tịch Tiểu ban điều tra về tình hình sẵn sàng chiến đấu của
Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã phát biểu: “Nếu Mỹ thua ở Việt Nam thì Mỹ thua một
cuộc chiến tranh. Nhưng nếu Mỹ lạc hậu một cách tuyệt vọng trong lĩnh vực chiến
lược hạt nhân thì Mỹ có thể mất cả sự tồn tại của mình”. Dẫn theo Thất bại của đế quốc Mỹ, NXB. Quân đội
nhân dân, H, 1979, tr. 128.
[35] Lời thú nhận của Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu vào trưa 22.4.1975 trên sóng đài phát thanh Sài Gòn cũng đã phần nào
chứng tỏ điều đó: “Mỹ đã yêu cầu chúng ta điều không thể làm được. Vì vậy, tôi
đã bảo với họ: các ông đòi chúng tôi làm điều mà các ông đã thất bại với nửa
triệu lính tinh nhuệ và sĩ quan có tài với gần 300 tỉ đô la chi phí trong 6 năm
trời. Nếu tôi không nói các ông bị Cộng sản Việt Nam đánh bại, thì tôi cũng
phải nói một cách khiêm tốn là các ông không thể chiến thắng. Nhưng các ông đã
tìm đường rút lui trong danh dự”.
[36] Đôn Obớcđoiphơ: Tết, Sđd, tr. 180.
[37] G. Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Tập 1, NXB. Quân đội nhân dân, H,
1991, tr. 310.
[38] Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ xưa và nay, Tạp chí Xưa & Nay, số tháng 5-1994.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!