Viện Lịch sử quân sự
Cùng uống chung dòng nước ngọt ngào của sông Mê Kong,
cùng tựa lưng vào dãy núi Trường Sơn – Phù Luổng hùng vĩ và trong trường kỳ giữ
nước luôn phải đối mặt với những kẻ thù chung, nên vì thế, liên minh chiến đấu
Việt – Lào trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc hình thành một cách tự nhiên
như chính yêu cầu của lịch sử. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược, liên minh chiến đấu Việt – Lào ngày càng được củng cố bền
chặt, gắn liền với những chiến công vang dội trên chiến trường, mà một trong
những chiến công như thế là chiến dịch phòng ngự cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng
năm 1972.
1. Cục diện chiến
trường Đông Dương
Trong thế thất bại và bị động sau Tổng tiến công Mậu Thân
1968 ở Việt Nam,
đế quốc Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán Paris,
song vẫn ngoan cố chuyển sang chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", hòng
giành thế mạnh trên chiến trường và trên bàn Hội nghị. Đối với Đông Dương, Mỹ
thực hiện kế hoạch mở rộng phản kích ra bên ngoài, tăng cường chiến tranh đặc
biệt ở Lào, xóa bỏ nền trung lập ở Campuchia, xây dựng lực lượng thân Mỹ và
liên minh khu vực, hỗ trợ cho việc củng cố phát triển thế lực của chính quyền
tay sai ở Campuchia và Lào, làm cho lực lượng kháng chiến của ba dân tộc Đông
Dương suy yếu.
Lúc này ở Lào, cuộc chiến tranh đặc biệt được Mỹ
đẩy lên với quy mô và cường độ ngày càng cao. Cuộc hành quân Cù Kiệt (8-1969)
được xem như một biểu hiện điển hình đầu tiên của chiến lược “Lào hóa chiến
tranh”. Tháng 3- 1970, ở Campuchia diễn ra cuộc đảo chính lật đổ chính phủ
trung lập Vương quốc Campuchia với sự “bật đèn xanh” của Mỹ. Mới lên cầm quyền,
chính quyền Lon-non đã gây cho lực lượng của VNDCCH những khó khăn nghiêm trọng[1]. Trước
những diễn biến mới của tình hình, Việt Nam thực hiện phối hợp chặt chẽ lực
lượng cách mạng trên bán đảo Đông Dương, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ba nước Đông Dương vượt qua những thử thách to lớn, phát
triển lên một bước mới, hình thành thế trận của ba dân tộc cùng kề vai, sát
cánh chống kẻ thù chung. Cuộc đảo chính ngày 18-3-1970 và việc Mỹ mở rộng chiến
tranh xâm lược sang Campuchia hỗ trợ cho chính sách Việt Nam hoá ở miền Nam đã
không đạt được mục đích ngăn chặn phong trào cách mạng Campuchia, trái lại, tạo ra một tình thế mới cho cách mạng
Campuchia phát triển; thúc đẩy nhân dân ba nước Việt Nam - Campuchia - Lào tăng
cường đoàn kết chiến đấu, sát cánh cùng nhau chống lại kẻ thù chung là đế quốc
Mỹ và bè lũ tay. Đáp ứng yêu cầu khách quan của cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mỹ đang bước vào giai đoạn quyết liệt, chiến trường Đông Dương tiếp tục đóng
vai trò một địa bàn chiến lược rộng lớn, thống nhất, nối liền ba nước, nối liền
tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, “trong đó Campuchia là khâu yếu nhất của Mỹ
- nguỵ, miền Nam Việt Nam là chiến trường chủ yếu quyết định thắng lợi chung,
Lào là chiến trường rất quan trọng”[2].
Đánh giá về tình hình chiến trường Đông Dương, tháng 6-1971, Lê Duẩn chỉ rõ: “Nhìn
chung cả chiến trường Đông Dương, thì ở Lào và Campuchia, ta và bạn đều mạnh
hẳn hơn địch và giữ quyền chủ động tiến
công. Sau bước phát triển nhảy
vọt của cách mạng Campuchia từ năm ngoái đến nay và sau các chiến thắng lớn ở
Nam Lào, cao nguyên Bôlôven, quân dân Việt Nam đã mở ra một vùng căn cứ chiến
lược rộng lớn từ Nam Lào, Tây Trị Thiên đến miền Đông Nam Bộ và Biển Hồ, tạo
nên một thế mạnh mới cho ta không những trước mắt mà cho cả về sau nữa. Hành
lang tiếp tế chiến lược từ hậu phương lớn miền Bắc đến tận Nam Bộ, Campuchia đã
được mở rộng và củng cố”[3].
Với tư tưởng chiến lược tiến
công và không ngừng tiến công, quân dân Việt Nam chủ động, tích cực phối hợp chiến đấu
với quân và dân hai nước Lào, Campuchia đánh bại các cuộc hành quân quan trọng của
địch trên chiến trường Đông Dương: (1). Giành chiến thắng ở Đắc Siêng, Tây
Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Khu 5, Trị Thiên; (2). Giành
chiến thắng Cánh Đồng Chum, Longcheng, Mườngxui, Xalaphukhun, cao nguyên
Bôlôven; (3). Giành thắng lợi lớn chống lại cuộc hành quân "Chenla 2"
ở Campuchia, trên mặt trận xung quanh Phnôm Pênh, trên đường số 7…. Những thắng
lợi mang ý nghĩa chiến lược đó đã tạo ra một thế đứng mới, chủ động trên chiến
trường, cho thấy sự phá sản bước đầu của “Việt Nam hóa chiến tranh”, "Lào
hoá chiến tranh" và "Khơme hoá chiến tranh"; đồng thời phản ánh
sự lớn mạnh của lực lượng của VNDCCH và Lào, sự phát triển không ngừng của tình
đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương và cục diện thay đổi trên
chiến trường Đông Dương. Nhìn chung thế so
sánh lực lượng giữa ba nước Đông Dương và đối phương, diễn biến cơ bản của tình
hình, thì “ta đang ở thế thắng, thế thuận lợi, thế đi lên, mặc dầu còn có những
khó khăn và nhược điểm cần khắc phục; địch đang ở thế thua, thế khó khăn, thế
đi xuống, mặc dầu chúng đang còn có lực lượng và có những chỗ mạnh nhất định”[4].
Trên cơ sở nhận định đó, ở chiến trường Đông Dương, quân và dân ba nước tiếp
tục đẩy mạnh các hoạt động phối kết hợp quân sự, giữ vững quyền chủ động, tạo
tiền đề cho những thắng lợi quân sự to lớn tiếp theo. Trong thế chiến lược ấy,
mặt trận Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng trở thành một mũi nhọn đấu tranh quan
trọng, mà Lào và Việt Nam cùng quyết tâm
dồn dốc sức lực thực hiện.
2. Cánh đồng Chum –
Xiêng Khoảng và yêu cầu tổ chức chiến dịch phòng ngự năm 1972
Với vị trí “đắc địa”[5], cánh
đồng Chum – Xiêng Khoảng có tầm quan trọng về cả thế công và thế thủ, là một
địa bàn chiến lược trọng yếu, có tầm ảnh hưởng chiến lược rộng lớn không chỉ
đối với sự tồn vong của khu căn cứ địa cách mạng Lào, mà còn có giá trị khống
chế đối với vùng Đông Dương. Chính vì thế, trong suốt chiếu dài cuộc kháng
chiến chống Mỹ, nơi đây trở thành nơi đọ sức, giành giật giữa lực lượng cách
mạng Lào và Mỹ, Quân đội Viêng Chăn; đồng thời cũng là địa bàn mang tính phối
hợp chiến trường chung rất quan trọng của Việt Nam và Lào.
Từ năm 1969, đẩy mạnh “chiến tranh đặc biệt tăng cường” ở
Lào, chính quyền R.Nixon ồ ạt đưa quân Thái Lan vào Lào, phát triển lực lượng
đặc biệt[6],
tăng mật độ không quân, hòng giáng những đòn quyết định, tiêu diệt cách mạng
Lào, giành quyền kiểm soát toàn bộ đất Lào. Thực hiện âm mưu đó, chiếm giữ bằng
được cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng trở thành mục tiêu tất yếu, mang tính quyết
định được đặt ra đối với quân Mỹ, ngụy Viêng Chăn, mà chúng tính toán giải
quyết bằng những cuộc hành quân quy mô lớn, với lực lượng đông, trang bị vũ khí
tối tân, có sự hỗ trợ, hiệp đồng của nhiều binh chủng.
Từ tháng 10-1969 đến tháng 4-1972, liên tục diễn ra các
cuộc tấn công và phản công giữa liên quân chiến đấu Lào – Việt và quân địch,
trong đó nổi bật hai chiến dịch lớn: (1). Chiến dịch Toàn Thắng (10/1969-
4/1970) giáng trả cuộc hành quân Cù Kiệt, tạo thế thuận lợi cho cách mạng Lào
phát triển; (2). Chiến dịch Cánh đồng
Chum – Long Chẹng (12/1971-4/1972), giải phóng Cánh đồng Chum – Mường Sủi, tạo thế uy hiếp Long Chẹng – “Thủ đô vương quốc Mẹo”.
Như vậy, suốt một thời gian dài, mặt trận cánh đồng Chum
– Xiêng Khoảng ở trong thế giằng co giữa liên quân Lào – Việt và đối phương.
Nơi đây tập trung cao sức mạnh quân sự của hai bên đối chiến và là nơi mức độ
hủy diệt của chiến tranh đạt tới sự khốc
liệt hiếm thấy; tổn thất về con người, vũ khí của cả Lào, Việt Nam và đối
phương đều rất to lớn.
Đầu năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ba
nước Đông Dương tiếp tục có những chuyển biến quan trọng. Đảng nhận định: “Thực
tiễn diễn biến trên chiến trường Việt Nam và Đông Dương chứng tỏ rằng, mặc dầu
đế quốc Mỹ đã cố gắng đến mức cao nhất, song chúng đã thất bại nặng nề nhiều
mặt”[7]. Điều
kiện lịch sử mới này mở ra những thuận lợi cơ bản cho cuộc kháng chiến của nhân
dân ba nước Đông Dương. Phân tích, đánh giá tình hình một cách khách quan, khoa
học, Đảng đề ra nhiệm vụ: “Đánh bại
học thuyết Níchxơn trên toàn chiến trường Đông Dương, tạo ra một chuyển biến
căn bản làm thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam và trên cả bán đảo Đông
Dương, giành thắng lợi to lớn, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh trên
thế thua bằng một giải pháp chính trị có
lợi cho ta mà chúng có thể chấp nhận được”[8].
Triển khai nhiệm vụ, trên chiến trường hai miền Nam, Bắc Việt Nam, chiến dịch
tiến công Trị Thiên và Bắc Tây Nguyên, chiến dịch phòng không chống cuộc
tập kích chiến lược B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng được tiến hành. Trong thế liên hoàn chiến trường, nhằm bảo vệ vững
chắc địa bàn chiến lược quan trọng của chiến trường Lào, đồng thời bảo vệ sườn
phải, hỗ trợ cho chiến dịch tiến công chiến lược 1972 trên chiến trường miền Nam Việt Nam, đầu
tháng 4-1972, ngay sau khi kết thúc chiến dịch Cánh đồng Chum – Long
Chẹng, Trung ương Đảng, Quân ủy Trung
ương và Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam, Lào quyết định mở chiến dịch phòng
ngự Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng. Đây cũng là chiến dịch phòng ngự phá thế
giằng giật quyền kiểm soát địa bàn này nhiều năm giữa liên quân Lào- Việt và
đối phương theo quy luật mùa khô, mùa mưa[9].
Đây cũng là chiến dịch trọng yếu trong toàn bộ các chiến dịch diễn ra trên mặt
trận Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng những năm 1969-1972, mà ở đó, sự phối hợp
chiến đấu của liên quân Lào – Việt nhịp nhàng, chặt chẽ, đạt hiệu quả cao.
3. Liên quân Lào
–Việt tiến hành thắng lợi chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng
năm 1972
Để đảm bảo thắng lợi, việc tổ chức và chuẩn bị chiến dịch
được thực hiện hết sức cẩn trọng, kỹ càng.
Việt Nam cử Cục phó Cục tác chiến Đoàn Thế Hùng và các cán bộ bộ phận theo dõi chiến trường
Lào tham mưu giúp Bộ Tổng Tham mưu Lào; cử phái viên tham gia công tác tham mưu
chiến dịch. Tư lệnh chiến dịch là đồng chí Vũ Lập, Chính ủy là đồng chí Lê
Linh.
Địa
bàn phòng ngự được tổ chức tại khu tứ giác Mường Sủi -
Noọng Pét - thị xã Xiêng Khoảng - Thẩm Lửng (dài 60 km, rộng 50 km), chia thành
5 khu vực: khu trung tâm (Cánh Đồng Chum), khu trung gian (Hin Tặng), khu thứ
yếu (Noọng Pét) và 2 khu tác chiến phối hợp (Mường Sủi và thị xã Xiêng Khoảng);
mỗi khu vực có một số cụm chốt.
Lực
lượng của phía Việt Nam tham gia phòng ngự gồm: 5 trung đoàn bộ
binh (174, 148, 866, 335 và 88), 2 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo binh, 4
tiểu đoàn pháo và súng máy phòng không, 1 tiểu đoàn xe tăng và 2 tiểu đoàn công
binh của quân tình nguyện Việt Nam; 7 tiểu đoàn chủ lực, 1 đại đội xe tăng, 2
đại đội pháo binh, 2 đại đội súng máy phòng không, 1 đại đội công binh và 4 đại
đội bộ đội địa phương của Quân Giải phóng Nhân dân Lào.
Chiến dịch diễn ra trong 179 ngày, với 244 trận đánh (từ
21-5 đến 15-11-1972) và liên quân Lào – Việt phải đương đầu với 76 tiểu đoàn bộ
binh (trong đó có 18 tiểu đoàn Thái Lan), 3 tiểu đoàn pháo binh, được không
quân Mỹ chi viện. Chiến dịch gồm 4 đợt:
- Đợt 1 : Từ 21-5 đến 10-8, đánh địch tiến công khu trung
gian;
- Đợt 2: Từ 11-8 đến 10-9, đánh 40 tiểu đoàn địch và quân
đổ bộ đường không, phản đột kích đánh bại cánh quân chủ yếu;
- Đợt 3: Từ 11-9 đến 30-9, phản đột kích lần thứ 2, giành
chủ động trên chiến trường;
- Đợt 4: Từ 1-10 đến 15-11-1972, đánh bại hoàn toàn chiến
dịch tiến công lớn của quân ngụy Lào - Thái Lan.
Liên quân Lào – Việt tổ chức lực lượng thích hợp (chia
thành bộ phận phòng ngự tại chỗ và cơ động đánh địch trên các hướng), ngăn
chặn, phản kích bẻ gãy các mũi và hướng tiến công của địch, kết hợp tập kích
tiêu hao sinh lực, tạo thế và lực đánh trận then chốt quyết định, tiêu diệt
phần lớn cụm quân địch từ nam Bản Quay đến bắc Khang Kho (26-10), sau đó tiếp
tục tiến công, truy quét địch khỏi nam Cánh Đồng Chum, buộc địch phải co về giữ
Long Chẹng. Trong chiến dịch, cách đánh phối hợp giữa chiến đấu phòng ngự và
chiến đấu tiến công đã được liên quân Lào – Việt thực hiện nhuần nhuyễn, linh
hoạt, làm tăng đáng kể hiệu quả chiến đấu.
Chiến dịch phòng ngự Cánh đồng
Chum – Xiêng Khoảng năm 1972 giành thắng lợi, đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công
quy mô lớn, có tính chất chiến lược của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải
phóng, tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực địch[10],
góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường. Thắng lợi của chiến dịch làm quân ngụy Lào thất bại ở khắp nơi,
phải quay về bám giữ đường số 13, góp phần vào thất bại hầu như không gượng nổi
của địch trên toàn bộ chiến trường.
Chiến dịch phòng ngự Cánh đồng
Chum – Xiêng Khoảng năm 1972 được đánh giá là một chiến dịch phòng ngự bài bản,
có quyết tâm sớm, chuẩn bị kỹ, thiết bị chiến trường hợp lý. Đây cũng được coi
là chiến dịch phòng ngự hoàn chỉnh đầu tiên của liên quân Lào – Việt với cách
đánh sáng tạo, hiệu quả; góp phần đúc kết kinh nghiệm, làm phong phú lý luận về
nghệ thuật chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ.
4. Kinh
nghiệm phối hợp chiến đấu trong chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum – Xiêng
Khoảng năm 1972
Thắng lợi của chiến dịch để lại nhiều kinh nghiệm về đánh
giá chính xác tình hình địch, xác định đúng các khu vực phòng ngự, có cách đánh
phù hợp, tổ chức đánh địch từ xa, phá thế tiến công của chúng ngay từ đầu, kết
hợp chiến đấu phòng ngự và chiến đấu tiến công… Bên cạnh các kinh nghiệm về
chuẩn bị, tổ chức chiến dịch, nổi lên một kinh nghiệm quan trọng, có ý nghĩa
chính trị, đó là kinh nghiệm liên minh, phối hợp chiến đấu giữa Việt Nam và Lào
trong thực hiện nhiệm vụ chiến dịch.
Đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa các dân tộc Đông Dương
là một yêu cầu khách quan, là quy luật sống còn của các dân tộc Đông Dương,
trong đó tình đoàn kết chiến đấu Việt – Lào hết sức “đặc biệt”, mang tính
nguyên tắc. Suốt chiều dài hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược, liên minh, phối hợp chiến đấu với quân và dân Lào luôn được Đảng
Cộng sản Việt Nam coi trọng và thực hiện nhất quán. Trong những bước ngoặt của
kháng chiến, sự cần thiết liên minh, phối hợp chiến đấu giữa Việt Nam và Lào
càng trở nên cần thiết. Chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng năm
1972 thể hiện một cách đậm nét sự liên minh, phối hợp chiến đấu với quân và dân
Lào khi quân dân Việt Nam làm nhiệm vụ trên đất Lào. Để liên minh chiến đấu
giữa Việt Nam và Lào bền chặt, phát huy hiệu quả, cần chú ý những điểm cốt yếu
sau:
Thứ nhất, dù Lào và Việt Nam thống
nhất trong mục tiêu tiêu diệt kẻ thù chung, song lực lượng tác chiến trong
chiến dịch lại là những lực lượng riêng biệt thuộc về hai Đảng, hai Nhà nước,
hai quân đội khác nhau. Vì thế, thực hiện hiệp đồng tác chiến vì lợi ích chung
của hai nước cần tuân thủ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, độc lập, tự chủ của Lào,
đồng thời giữ quan hệ bình đẳng dân tộc, nêu cao tinh thần quốc tế chân chính,
luôn ý thức “giúp bạn là tự giúp mình”. Những nguyên tắc này phải được thấm
nhuần, quán triệt từ trong tư duy, nhận thức cho tới hành động.
Thứ hai, cần thấy rõ những
đặc điểm, điều kiện cụ thể của Lào, của quân đội Lào, từ đó đưa ra những biện
pháp phối hợp tác chiến thích hợp, làm cho sự giúp đỡ, liên minh chiến đấu với
quân và dân Lào phát huy tối đa tác dụng, đạt kết quả cao. Đặc biệt, phải luôn
phát huy nỗ lực chủ quan, chủ động giành phần khó về mình. Luôn luôn duy trì
các hình thức trao đổi, bàn bạc tập thể với Lào một cách thường xuyên, để hai
bên nắm vững, hiểu rõ phương hướng chỉ huy, nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến của
chiến dịch, đi tới sự nhất trí, đồng thuận cao trong thực hành chiến dịch.
Thứ ba, các cán bộ và lực lượng của Việt Nam tham gia chiến
dịch trên đất Lào cần có sự hiểu biết, chấp hành đầy đủ, nghiêm chỉnh các đường
lối, chính sách của Lào; tôn trọng phong tục tập quán của Lào cũng như chấp
hành nghiêm chỉnh đường lối quốc tế, các chính sách và kỷ luật chính trị của
Đảng CSVN. Điều này là vô cùng quan trọng, để tránh các vấp váp, hiểu lầm không
cần thiết, tránh sự kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi từ phía địch, nhằm chia
rẽ và làm suy yếu liên minh chiến đấu.
Thứ
tư, trong
công tác giúp Lào và phối hợp chiến đấu với Lào, bên cạnh việc ra sức thực hiện
nhiệm vụ tác chiến đã đề ra, phải hết sức chú trọng giúp Lào phát triển lực
lượng cách mạng, củng cố và giải phóng về mọi mặt theo yêu cầu và chủ trương
của Lào, luôn luôn tăng cường khả năng tự lực của Lào. Không chỉ có vậy, cần chú
trọng tổng kết kinh nghiệm các mặt công tác, đặc biệt là công tác quân sự, công
tác chiến dịch, tìm hiểu sâu những đặc điểm và quy luật của đấu tranh cách mạng
ở nước Lào, để phối hợp và giúp Lào thực sự hiệu quả.
* *
*
Liên minh chiến đấu Việt – Lào vì độc lập, tự do của mỗi
dân tộc luôn chói ngời tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, là biểu hiện cao
đẹp của nghĩa tình Việt – Lào thủy chung son sắt, trước sau như một, “tình sâu
hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”. Trải qua những vận động thăng trầm của lịch sử, tôi
luyện trong gian nan, thử thách, như “lửa đã thử vàng”, liên minh chiến đấu
Việt – Lào, tình hữu nghị đặc biệt Việt – Lào trường tồn mãi với thời gian, như
ngọn lửa ấm áp soi sáng chặng đường đi lên phía trước của hai dân tộc anh em.
Download toàn văn bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
[1]Chính quyền
Lon-non đã gửi tối hậu thư cho chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa miền Nam
Việt Nam, buộc lực lượng ta phải rời khỏi Campuchia trong vòng 48 giờ;đưa quân
ngụy Nông Pênh áp sát biên giới Việt Nam từ Tây Ninh, Kiến Tường đến Châu Đốc,
Hà Tiên.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn
tập, tập 32, Sđd, tr. 474.
[5] Cánh đồng
Chum- Xiêng Khoảng là một vùng cao nguyên rộng lớn, trùng điệp, có rừng rậm xen
lẫn núi cao và vùng lòng chảo bằng phẳng, nằm ở phía Tây tỉnh Hủa Phăn, có các
con đường nối với Viêng Chăn và biên giới Việt Nam, được coi là chìa khóa
của nước Lào.
[6] Đây là một lực
lượng do Mỹ trực tiếp tổ chức, huấn luyện, chỉ huy và nuôi dưỡng; là lực lượng
xung kích được sử dụng tập trung trong các chiến dịch tiến công lấn chiếm vùng
giải phóng. Lực lượng này do Vàng Pao cầm đầu.
[10] Loại khỏi
chiến đấu hơn 5.600 địch (bắt 179), thu hơn 800 súng (có 4 pháo 105mm và 4 cối
106,7mm), bắn rơi 38 máy bay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!