Sau thắng lợi vang dội của "Tết Mậu thân"[1], thực hiện Nghị quyết của BCT tháng 4-1968, trong tháng 5 và tháng 8- 1968, quân và dân miền Nam trên chiến trường mở tiếp các đợt tiến công đồng loạt mà hướng chính vẫn nhằm vào đô thị. Trong điều kiện yếu tố bất ngờ không còn, đối phương đã tăng cường phòng thủ đô thị, lực lượng quân giải phóng bị tổn thất chưa kịp phục hồi và bổ sung, việc quân giải phóng vẫn nhằm vào đô thị, liên tiếp mở thêm các đợt tiến công và nổi dậy, dù có gây cho đối phương những thương vong nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh nhưng phía VNDCCH cũng bị tiêu hao lớn. Hơn nữa, nhân lúc quân giải phóng dồn sức đánh vào đô thị, bỏ ngỏ trận địa Nông thôn, đối phương kịp thời tận dụng cơ hội đó để tung quân chiếm lại các vùng vừa bị mất trong dịp Tết Mậu thân.
Từ đấy, ThẾ trẬn ba vùng chiến lược của quân dân miền Nam ngày càng bị suy giảm: Mất bàn đạp đứng chân ở vùng ven, vùng nông thôn đồng bằng, các đơn vị vũ trang phải lùi dần lên vùng rừng núi; thậm chí phải qua bên kia biên giới Campuchia và Lào, một số đơn vị chủ lực phải trở ra vùng Nam Quân khu 4 để củng cố lực lượng. Trong khi đó, tại các đô thị vùng ven, vùng đồng bằng bị chiếm, Mỹ và quân đội Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, hành quân bình định, triển khai mạnh mẽ các hoạt động "Phượng hoàng"... hòng tận diệt các cơ sở chính trị của cách mạng miền Nam. Từ giữa năm 1968 qua năm 1969 đến năm 1970, cách mạng miền Nam lâm vào thời kỳ đầy thử thách, khó khăn.
Tình hình trên đây khiến nhiều người
khi nhìn lại các đợt tiến công tháng 5 và tháng 8 năm 1968 của quân và dân miền
Nam trên chiến trường ngày đó đã xem như một hạn chế về tầm nhìn hoặc sai lầm
của các cấp chỉ đạo chiến lược mà hậu quả
của sai lầm này đã làm cho cục diện chiến trường sau "Tết Mậu
thân" trở nên "xấu hơn trước năm 1968", cách mạng miền Nam lâm vào "thời kỳ đen tối". Nhiều
ý kiến cho rằng: "Đáng lẽ sau đợt 1,
nếu ta biết ngừng và chuyển
hướng hoạt động chiến đấu để chống địch bình định mới đúng"[2];
"nếu có chủ trương từ trước, từ đầu,
thì rất hay, sau đợt 1 nên chuyển hướng ngay là đúng nhất, hay nhất, có
nhiều khả năng giữ được lực lượng, đứng được ở vùng ven, nắm được nông thôn,
địch vẫn phải thua to mà ta đỡ tổn thất"[3];
"đặc biệt, lẽ ra với đợt 2, ta tiếp cận các thành phố, thị xã, giải phóng
cả vùng nông thôn rộng lớn, nếu lấy việc
giữ vùng mới giải phóng làm hướng phấn đấu chính thì tình thế có cơ phát
triển tốt hơn nhiều, ta đỡ hao sinh lực mà thế đến bàn hội nghị cũng vững hơn"[4].
Nhìn
trên thực tế của chiến trường lúc ấy, những ý kiến trên đây quả thật có nhiều
mặt xác đáng. Nhưng đó là những ý kiến được phát biểu vào 18, 20 năm sau
"Tết Mậu thân" - nghĩa là nó đã mang sắc thái của những ý kiến tổng
kết, rút kinh nghiệm nên không tránh được những chữ "NẾU", "ĐÁNG
LẼ", "LẼ RA"... Nhưng sự kiện lịch sử lại là những sự kiện
"một đi không trở lại", không có chữ NẾu như... Chính vì thế mà, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói:
"Lịch sử, nói chính xác hơn là hiện thực lịch sử chỉ xảy ra một lần, duy
nhất và không thể chữa lại, nhưng nhận thức lịch sử, cũng như viết sử có thể
làm đi làm lại nhiều lần"[5].
Và chỉ trong khi viết đi viết lại về một sự kiện lịch sử nào đó, người nghiên
cứu mới đặt ra những chữ NẾU mang ý nghĩa giả
thiết này để lật đi, lật lại một vấn
đề theo nhiều chiều cạnh mà chiêm nghiệm, mà rút ra những bài học từ những
chiến thắng hay chiến bại trong lịch sử. Ở một ý nghĩa nào đó, trong nghiên cứu
khoa học lịch sử, lại rất cần đào sâu vào
nguyên nhân của những chiến bại. Bởi vì, những bài học rút ra từ những
thắng lợi và thất bại bao giờ cũng là những bài học có tính cập nhật, cần thiết
cho cuộc chiến đấu trong tương lai. Với ý nghĩa đó, người ta thường nói
"thất bại là mẹ của thành công" là vì thế. Xô viết Nghệ - Tĩnh sở dĩ
được xem là "cuộc tổng diễn tập lần thứ nhất" của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 chính là do những người Cộng sản Việt Nam đã từ tổn thất đó mà chắt
lọc được những bài học máu để 15 năm sau vùng lên, làm một cuộc tổng khởi nghĩa
ít đổ máu trong lịch sử dân tộc. Cái cay đắng có thật của một số chiến trường
sau Tết Mậu thân cũng chính là những "bài học" để 7 năm sau đó, quân
dân hai miền đã đưa sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam từ 3 năm rồi 2 năm
trong kế hoạch, rút xuống chỉ còn 55 ngày đêm chiến đấu dũng mãnh mà giành lại
được một Sài Gòn hầu như nguyên vẹn, tránh được "cuộc tắm máu" trong
tưởng tượng của không ít người của phía bên kia.
Với suy nghĩ như thế, trong bài viết
này, chúng tôi không hề ngần ngại hay né tránh những tổn thất có thật hoặc
những thiếu sót của các cấp chỉ đạo chiến lược mà chính Nghị quyết của Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21 (năm 1973) đã chỉ ra. Chúng tôi nhận thấy rằng: trong quá
trình nghiên cứu về "Tết Mậu thân", dù còn nhiều ý kiến chưa thống
nhất nhưng chưa hề có một ai dám nghi ngờ hay phủ nhận hoàn toàn tác động chiến
lược to lớn của cuộc tiến công đợt 1 - tức là Tổng tiến công và nổi dậy đồng
loạt Tết Mậu thân 1968; một cuộc tiến công mà, như Lê Duẩn từng nhận định, như
"một cú bombarde (ném bom, đập thẳng, đập mạnh) cho các yếu tố chính trị
tung tóe ra"[6];
một cuộc tiến công mà, như một tác giả Mỹ đã nhận ra rằng: "Đảng hoàn toàn không được chuẩn bị sẵn
sàng" để đón nhận "quy mô to lớn của tác động TẾT"[7].
Nhưng vấn đề còn lại thường gây tranh luận, thường tạo nên sự né tránh, kiêng
kỵ, do sợ "đụng chạm" chính là nằm ở những đợt tiến công tiếp theo
như chúng tôi đã trình bày, đã được một số tác giả đặt ra nhiều chữ NẾU, GIÁ
NHƯ, ĐÁNG LẼ... THÌ SẼ tránh được những tổn thất, tránh được sự "mất
thế"... Để tránh những mâu thuẫn, lúng túng trong cách nhìn nhận, đánh giá
các đợt tiến công sau "Tết Mậu thân", chúng tôi nghĩ rằng: người
nghiên cứu cần phải đứng trên quan điểm
lịch sử cụ thể, toàn diện hơn nữa để xem xét nó. Trong một loạt bài viết của
Lê Đức Thọ về Tổng kết chiến tranh và
biên soạn lịch sử quân sự, đã có lúc bắt gặp một thoáng suy nghĩ này khi Lê
Đức Thọ cho rằng: trong việc tổng kết những giai đoạn cách mạng trước đây,
"cần phải nắm chắc hoàn cảnh lịch sử của mỗi sự kiện, không được lấy tình
hình và kinh nghiệm hiện nay để đối chiếu vào những sự kiện đã qua, bất chấp
hoàn cảnh, thời gian, không gian của sự kiện lịch sử lúc đó"[8]. Vì vậy,
chúng tôi muốn đặt suy nghĩ của mình vào chính thời kỳ lịch sử sau
"Tết Mậu thân", nghĩa là từ sau ngày 31 tháng 3 đến ngày 31 tháng 10
năm 1968, để xem xét, để đặt ra những câu hỏi cần thiết. Cần mở ngoặc để nói
ngay ở đây rằng, làm như vậy, chúng tôi không hề có ý định phủ nhận những tổn
thất của các đợt tiến công sau ngày 31 tháng 3 khi mà, do dồn sức tiến công mà
hướng chính vẫn nhằm vào đô thị nên lực lượng và thế trận cách mạng miền Nam đã
bị thương vong và suy giảm mạnh. Thế nhưng, để làm rõ vai trò và vị trí của các
đợt tiến công tháng 5 và tháng 8 năm 1968, cần phải đặt nó trong bối cảnh tổng
thể của thời kỳ lịch sử sau Tết Mậu thân. Điều này đòi hỏi phải có những công
trình, những luận văn chuyên sâu vào thời kỳ lịch sử phức tạp này - mà ở đó, độ
lùi của thời gian đã cho phép các văn bản, các tư liệu lịch sử liên quan tới
tính toán chiến lược của cơ quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam và giới lãnh đạo
cấp cao Mỹ lúc đó đã được công bố, được đào xới tới từng chi tiết. Vẫn biết đó
không phải là nhiệm vụ đặt ra cho bài viết này và thực sự là chúng tôi chưa thể
đủ sức ôm trùm một khối tư liệu như mong ước, song trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi thấy vẫn buộc phải tự đặt ra một số câu hỏi cho chính mình, xem như
những "nghi vấn khoa học"
nhằm bổ sung, soi sáng thêm cho những luận điểm của chúng tôi khi đặt cho mình
nhiệm vụ nghiên cứu kỹ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968. Làm
được như vậy, chúng tôi hy vọng rằng, những nghi vấn khoa học đặt ra mà nếu tìm
được lời giải đáp đúng, sẽ càng tô đậm thêm thắng lợi của cuộc tiến công
"Tết Mậu thân"; bằng không, đó cũng chỉ là những suy nghĩ bước đầu
chúng tôi tự đặt ra cho mình phấn đấu tự giải đáp trong quá trình nghiên cứu
sau này và không vì thế mà tác động vĩ đại của "Tết Mậu thân" bị giảm tầm giá trị đã đi vào lịch sử của nó -
như một bước ngoặt, một cột mốc lớn trong tiến trình 21 năm (1954-1975) cuộc
kháng chiến chống Mỹ.
Quả
thực là, cho đến nay, chưa một tác giả nào có điều kiện đầy đủ về tư liệu như
chúng tôi mong ước để đi sâu hơn nữa vào từng đợt tổng tiến công tháng 5 và
tháng 8 năm 1968 như một chuyên luận độc
lập. Một chuyên luận như vậy, chúng tôi hình dung nhất định phải đặt ra và
giải quyết được những câu hỏi sau đây:
1. Ý đồ chiến lược thực sự của cơ
quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam và tập đoàn cầm đầu Nhà Trắng sau cuộc Tổng
tiến công "Tết Mậu thân" là gì?
2. Những nhân tố quốc tế nào đã tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp tới tính toán chiến lược của Mỹ và Việt Nam thời
kỳ sau "Mậu thân"?
3. Phía Việt Nam sẽ ngồi vào bàn đàm
phán trực tiếp với Mỹ ở tư thế như thế
nào nếu như sau "Tết Mậu thân", quân và dân trên chiến trường thôi không tiến công vào đô thị mà quay ra củng cố vùng giải phóng nông
thôn - vốn là địa bàn thuận lợi để Mỹ phát huy ưu thế về hỏa lực, bom đạn? Và
liệu phía Mỹ, chính quyền Sài Gòn có chịu để yên cho quân dân miền Nam
"củng cố" như vậy hay không khi Mỹ là nước lớn và khi trong tay vẫn
còn hơn một triệu quân, một khối lượng vũ khí, phương tiện chiến tranh lớn,
hiện đại?[9].
Nhìn lại lịch sử, có thể nhận thấy
được rằng: từ "Tết Mậu thân" trở về trước, lập trường của Chính phủ
VNDCCH là: Mỹ phải chấm dứt không điều kiện mọi hành động chiến tranh chống phá
Việt Nam Dân chủ cộng hòa trước khi có bất cứ cuộc tiếp xúc chính thức nào giữa
đại diện của Mỹ và Việt Nam. Đến ngày 31 tháng 3 năm 1968, do tác động của
đòn "Tết Mậu thân", phía Mỹ phải đơn phương xuống thang chiến tranh,
tuyên bố sẵn sàng cử đại diện đi vào đàm phán với phía Việt Nam nhưng trên thực
tế, Mỹ vẫn duy trì cuộc chiến tranh phá
hoại miền Bắc từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20, vẫn duy trì các chuyến bay trinh
sát đường không trên vùng trời, vùng biển miền Bắc và vẫn giành quyền ném bom
trở lại toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa khi cần.
Trong khi đó, chiến sự trên chiến
trường vẫn không ngừng tiếp diễn và ngày
càng quyết liệt. Tháng 3 và tháng 4 năm 1968, Mỹ tập trung lực lượng,
liên tiếp mở các cuộc hành quân quy mô lớn nhằm đánh bật lực lượng vũ trang
giải phóng ra xa các đô thị, khôi phục lại các tuyến đường giao thông chiến
lược đã bị cắt đứt, đồng thời tăng cường đàn áp, khủng bố ác liệt các cơ sở
cách mạng, ráo riết tiến hành "bình định" nhằm giành lại các vùng
nông thôn đồng bằng, đặc biệt là các vùng trọng điểm vừa bị mất. Đứng
trước tình hình này, Đảng LĐVN không thể
không cân nhắc kỹ lưỡng mọi phương án hành động nhằm đưa sự nghiệp kháng
chiến của nhân dân tiếp tục phát triển. Chúng
tôi tin chắc rằng, ở đây, kinh nghiệm
của những lần đàm phán trực tiếp với phía Pháp năm 1945, 1946 hoặc năm
1954 trong lịch sử chắc hẳn để lại cho Đảng LĐVN nhiều bài học quý báu trong cuộc đấu tranh ngoại giao cũng như sự cảnh giác cao độ của một nước nhỏ ngồi
"đàm phán hòa bình" với một nước lớn đầy tham vọng. Và bối cảnh phức
tạp của quan hệ quốc tế mà ở đó, kể cả một số bè bạn của VNDCCH như Liên Xô và
Trung Quốc vẫn còn những sự nhìn nhận không
thuận chiều khi phía Việt Nam quyết định đi vào đàm phán với phía Mỹ,
chắc chắn cũng là một nhân tố được Đảng LĐVN lượng định, đánh giá trước khi đưa
ra quyết định cuối cùng. Còn nhớ, mới chỉ 36 tháng trước khi Tổng thống Mỹ
Giôn-xơn đọc diễn văn ngày 31 tháng 3 năm 1968, phát biểu tại Ban-ti-mo (ngày 7 tháng 4 năm 1965), Giôn-xơn từng nói rằng: "Mỹ
sẵn sàng thương lượng không điều kiện" với Hà Nội nhằm chấm dứt
chiến tranh. Nhưng, cùng với lời tuyên bố này là việc quân viễn chinh Mỹ ồ ạt
đổ vào miền Nam và không quân, hải quân Mỹ
leo thang đánh phá dữ dội miền Bắc (!). Dư luận rộng rãi trên thế giới
ngày đó đã nhận thấy giữa lời tuyên bố
công khai với hành động thực tế của Chính phủ Mỹ là hai chiều ngược nhau.
Đến tháng 9 năm 1967, đọc diễn văn tại Hội nghị lập pháp toàn quốc ở Xan
An-tô-ni-ô, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tuyên bố: Mỹ và đồng minh Nam Việt Nam
"đã chuẩn bị sẵn sàng để thảo luận tối hôm nay", với Bắc Việt Nam;
"sẵn sàng nói chuyện với Cụ Hồ Chí Minh", sẵn sàng cử Bộ trưởng Ngoại
giao Ra-xcơ đi gặp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của các vị ấy ngày mai", "sẵn sàng cử một đại diện có thẩm quyền của
nước Mỹ đi bất cứ nơi nào trên trái đất để nói chuyện công khai hay bí mật với
người phát ngôn của Hà Nội"[10].
Nhưng chính là do kinh nghiệm dạn dày
trong đấu tranh ngoại giao của Đảng LĐVN cũng như sự thấu hiểu bản chất của đối phương mà VNDCCH đã ít
"xúc động" trước lời tuyên bố dường như là "thiện chí" đó
của Mỹ. Và sự thực là đến trước "Tết Mậu thân", Mỹ vẫn quyết tâm
giành thắng lợi trên chiến trường Việt Nam bằng
biện pháp quân sự. Điều đó được chứng tỏ trong Thông điệp ngày 17 tháng 1 năm 1968 về tình hình liên bang của Tổng
thống Mỹ Giôn-xơn. Trong thông điệp này, khi
đề cập tới chiến tranh Việt Nam, Giôn-xơn vẫn nói rằng "các cuộc thương
lượng (với Bắc Việt Nam) phải trên cơ sở công thức Xan An-tô-ni-ô"[11]
- một công thức bề ngoài có vẻ "mềm dẻo" nhưng thực chất chứa đựng
một lập trường thương lượng cứng rắn và có điều kiện của Mỹ; một công thức khả
dĩ xoa dịu dư luận ở Mỹ và trên thế giới, qua đó, "để cho Mỹ vượt qua được
năm khó khăn trước tuyển cử, còn lập trường
của Mỹ vẫn là lập trường chiến tranh"[12].
Từ những thực tế đó, Đảng và Chính
phủ VNDCCH nhận thức rõ ràng rằng,
"sáng kiến hòa bình", "thương lượng không điều kiện"
của Mỹ chỉ mang tính tuyên truyền nhằm đánh lạc hướng dư luận, che giấu các
hành động chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Cho nên, VNDCCH không hề ảo tưởng vào
"thiện chí hòa bình" của Mỹ
và kiểu Mỹ. Tuy nhiên, đương đầu với
Mỹ - một nước lớn có tiềm lực quân sự và kinh tế mạnh hơn gấp nhiều lần, ngay
từ những ngày đầu, trong khi chỉ ra phương hướng chiến lược cho quân và dân
miền Nam trong giai đoạn chiến tranh cục bộ, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (tháng 12 năm 1965)
đã đồng thời nhấn mạnh: "Trong quá trình chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, ta
phải giữ vững quyết tâm chiến lược, đồng
thời áp dụng sách lược đấu tranh chính trị và ngoại giao khôn khéo để phối
hợp với đấu tranh quân sự, chủ động tiến công, nêu cao ngọn cờ độc lập và hòa
bình nhằm tranh thủ rộng rãi dư luận thế giới và cô lập hơn nữa đế quốc
Mỹ". Đến tháng 10 năm 1966, Bộ Chính trị đã họp để đánh giá tình hình và
đề ra chủ trương "tích cực chủ động và tích cực tạo điều kiện vận dụng
sách lược vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa
đánh, nhằm mục đích tranh thủ dư luận thế giới, cô lập đế quốc Mỹ, gây thêm
khó khăn cho địch, làm cho chúng bị động, lúng túng và nội bộ chúng mâu thuẫn
hơn nữa". Ba tháng sau đó - từ ngày 23 đến ngày 26 tháng 1 năm 1967, Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 13 đã quyết định mở mặt trận đấu tranh
ngoại giao. Hội nghị khẳng định "mở
mặt trận ngoại giao bây giờ là đúng lúc" và cho rằng: "Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội
nghị những cái mà chúng ta đã giành được
trên chiến trường. Tuy
nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn
thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên
chiến trường mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh
ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích
cực và chủ động".
Xuất
phát từ chủ trương nhất quán trên đây, từ sau "Tết Mậu thân", trước
đề nghị đàm phán của Tổng thống Giôn-xơn ngày 31 tháng 3 năm 1968 và trước hành
động thực tế của Mỹ trên chiến trường, Đảng và Chính phủ VNDCCH đã, một mặt
"sẵn sàng cử đại diện của mình
tiếp xúc với đại diện của Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không
điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa, để có thể bắt đầu cuộc nói
chuyện"[13];
mặt khác, kiên quyết "động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phát
huy khí thế chiến thắng, tiếp tục phát
triển tiến công toàn diện, giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn nữa (...),
đẩy địch vào thế thất bại liên tiếp, ngày càng suy yếu, tan rã, không sao gượng
dậy được nhằm đi tới giành thắng lợi quyết định"[14].
Đây
là một chủ trương chiến lược thể hiện bản lĩnh vững vàng và sách lược mềm dẻo,
bởi lẽ, sau ngày 31 tháng 3 năm 1968, nếu từ chối lời yêu cầu cử đại diện tiếp
xúc trực tiếp với đại diện Chính phủ Mỹ thì VNDCCH đã mắc mưu đối phương: ai
cũng biết rằng, một mặt, Mỹ tuyên bố
"Mỹ sẵn sàng cử đại diện để nói chuyện với Hà Nội" nhưng mặt khác, từ trong thâm tâm, Mỹ rất muốn
VNDCCH từ chối để "đẩy quả bóng sang sân", đánh lạc hướng dư luận.
Thật vậy, trong bức điện văn gửi cho
Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn giải thích việc Tổng thống Giôn-xơn giới hạn ném bom từ
vĩ tuyến 20 trở vào, Bộ Ngoại giao Mỹ nêu rõ ràng Hà Nội có thể sẽ "lên
án" việc giới hạn đó của Mỹ và sẽ từ chối cử đại diện tiếp xúc với phía
Mỹ. Mỹ hy vọng chính điều này tạo điều kiện cho Mỹ "sẽ được tự do hành
động sau một thời gian ngắn" ngừng ném bom mà không bị dư luận trong nước
và trên thế giới phản đối.
Nhưng Mỹ không thể ngờ là ngay sau đó, ngày 3
tháng 4 năm 1968, Chính phủ VNDCCH đã tuyên bố "sẵn sàng cử đại diện của
mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không
điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ
cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện"[15].
Trước tuyên bố đó của Chính phủ VNDCCH, một tác giả Mỹ - Pi‑tơ A. Pu-lơ đã nhận
xét rằng: "Tốc độ đáp ứng của Hà Nội
rõ ràng đã làm cho chính quyền Giôn-xơn bị bất ngờ - điều này được thể hiện
qua việc giải quyết một cách lúng túng chung quanh vấn đề chủ yếu thuộc về thủ
tục là triệu tập hội nghị ở đâu[16].
Cuối cùng, hai bên đồng ý lấy Pa-ri - Thủ đô của nước Cộng hòa Pháp làm địa
điểm gặp nhau, nhưng "Mỹ giữ lập
trường cứng rắn ngay từ đầu"[17].
Thực tế đã cho thấy rằng: dù cho Mỹ
có "thành tâm" khi ngồi vào bàn đàm phán đầu tháng 4 năm 1968 đi
chăng nữa thì đó cũng là ngồi vào bàn trên
thế của kẻ mạnh. Theo hồi ký của Tổng thống Giôn-xơn thì, trong cuộc họp
giữa Tổng thống với các quan chức hàng đầu trong Chính phủ Mỹ ngày 9 tháng 4
năm 1968 để bàn về việc cử đại diện đàm phán với Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
Rốt-xtâu - cố vấn Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ - đã bình luận việc Hà Nội chấp
nhận cử đại diện đàm phán với Mỹ chính là đã "tự thừa nhận họ (tức chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa) đã ở vào một tình thế quân sự suy yếu"[18].
Trong khi đó Ha-ri-man - người được Giôn-xơn cử cầm đầu phái đoàn Mỹ hội đàm
với phái đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa - đã nói tại cuộc họp ngày 9 tháng 4 năm
1968 này rằng: "Trong những cuộc đàm phán sắp tới, chúng ta (tức phía Mỹ - HK) phải cầm chắc là chúng
ta sẽ đạt được những kết quả tích cực". Để đạt được "những kết quả
tích cực" đó trên bàn hội nghị, theo Ha-ri-man, Mỹ cần phải đẩy mạnh hơn nhữa những nỗ lực quân sự ở trên chiến trường:
"Chúng ta (tức là Mỹ) càng mạnh
về quân sự trên chiến trường thì lập
trường chúng ta trong thương lượng càng có thế"[19]. Xuất phát từ quan điểm đó, trong khi
trên chiến trường Việt Nam, quân Mỹ
và quân đội Sài Gòn "có những nỗ lực điên cuồng"[20]
như nhận xét của tác giả Mỹ Hê-ring, bằng việc dồn sức mở hàng loạt các cuộc
hành quân quy mô lớn, áp dụng nhiều biện pháp, sử dụng ồ ạt bom đạn và chất
độc... hòng giành thêm những lợi thế mới[21];
đồng thời, trên trường quốc tế, Mỹ ra
sức tuyên truyền về "thắng lợi quân sự của Mỹ và đồng minh ở Nam Việt Nam
từ sau Tết Mậu thân thì trên bàn hội nghị,
phía Mỹ đã đặt điều kiện cho việc chấm dứt
ném bom hoàn toàn miền Bắc - bằng cách buộc VNDCCH phải:
- Công nhận đại
diện chính quyền Sài Gòn tại Hội nghị Pa-ri;
- Chấm dứt việc đưa người, vũ khí từ
miền Bắc vào miền Nam Việt Nam;
- Ngừng ngay các cuộc tiến công vào các thành phố lớn ở miền Nam Việt Nam.
Giữ lập trường trên đây, ngày 20 tháng 7 năm 1968, trong Thông
báo chung nhân cuộc hội đàm giữa Giôn-xơn với Nguyễn Văn Thiệu tại
Hô-nô-lu-lu, phía Mỹ khẳng định lại cam kết của Mỹ "quyết tâm ngăn chặn
xâm lược", "không bỏ miền Nam Việt Nam", "Mỹ rút quân thì
Bắc Việt Nam cũng phải rút quân ra khỏi Nam Việt Nam"... Ngày 31 tháng 7
năm 1968, tại một cuộc họp báo, Giôn-xơn đe dọa nếu không có một đột phá tại
Pa-ri, Bắc Việt Nam không thay đổi lập trường của mình, ông "sẽ buộc phải
có những biện pháp quân sự mạnh"[22].
Trong lúc đó, các tham mưu trưởng liên quân Mỹ không hề "khoan
nhượng", đã liên tiếp thúc ép phải tiếp tục "leo thang", kể cả
việc dùng máy bay B.52 ném bom các "vùng đất thánh" của Bắc Việt Nam
ở Campuchia. Vào trung tuần tháng 8 năm 1968, phát biểu tại Hội nghị cựu chiến
binh Mỹ, Giôn‑xơn đã lại một lần nữa xác nhận quan điểm của Chính phủ Mỹ là:
"Không có ý tiến xa thêm nữa cho đến khi có đủ lý do để tin rằng, phía bên kia có những ý đồ nghiêm chỉnh
để phối hợp với Mỹ xuống thang chiến
tranh và nghiêm chỉnh tiến tới hòa bình"[23].
Trước tình hình này, Trưởng phái đoàn đàm phán Mỹ Ha-ri-man đã có lúc yêu cầu
Giôn-xơn thỏa hiệp nhưng ngay lập tức đề xuất đó của Ha-ri-man bị bác bỏ. Sau
này, một nhà ngoại giao Mỹ cho biết: "Những cuộc thương lượng gay go nhất
của chúng tôi là với Oa-sinh-tơn chứ không phải với Hà Nội. Vào mùa hè đó, chúng
tôi không thể thuyết phục được, ngay cả với Tổng thống"[24].
Trong lúc đó, chính quyền Sài Gòn công khai đòi
đàm phán trực tiếp với Hà Nội - chứ không phải với Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam.
Rõ ràng là, sau ngày 31 tháng 3 năm
1968, lập trường nhất quán của phía Mỹ vẫn là dành cho mình quyền tự do hành
động ở miền Nam trong khi ép đối phương phải giảm thiểu các hoạt động tiến
công, chấm dứt đưa người và vũ khí từ miền Bắc vào, công nhận đại diện chính
quyền Sài Gòn trên bàn hội nghị - nghĩa là buộc chính phủ VNDCCH phải thỏa mãn các điều kiện của Mỹ đưa ra
trước khi Mỹ chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Thực chất,
đấy vẫn là đòi hỏi trịch thượng của kẻ mạnh. Trước tình hình đó, Đảng LĐVN vẫn
kiên định lập trường vừa đấu tranh đòi Mỹ
phải đơn phương chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, vừa
chỉ đạo quân và dân miền Nam đẩy mạnh tiến công quân sự - chính trị, mở tiếp đợt 3 mà hướng chính vẫn là đô thị,
nhằm làm cho đối phương: "Thất bại trên chiến trường, thất bại ở các thành
thị lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ"[25].
Như
vậy, diễn biến chiến trường sau "Tết Mậu thân" thực chất là sự phản
ánh ý đồ chiến lược thực sự của cơ
quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam và tập đoàn cầm đầu Nhà Trắng ở Oa-sinh-tơn: giành ưu thế trên chiến trường để tạo thế
mạnh ở bàn hội nghị. Nhìn lại thực tế lịch sử này, có tác giả Mỹ đã bình luận rằng: "Hình như cả hai bên
đều tham gia vào cuộc phô trương công
khai sức mạnh ý chí của mình"[26].
Trong cuộc đọ sức quyết liệt đó, chẳng ai lấy làm lạ rằng, các bên tham chiến
đều bị tổn thất nặng nề: Nếu như 111.360 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang
cùng hàng vạn quần chúng đã hy sinh và bị thương trong năm 1968 thì cũng là
trong năm này, số thương vong của quân Mỹ đã
"gia tăng ghê gớm, nó gần gấp hai
lần tổng số thương vong của tất cả các năm trước đó cộng
lại - 30.610 người so với 16.210 người"[27].
Chỉ sáu tháng đầu năm 1968, Mỹ, quân đội Sài Gòn đã bị tổn thất 101.400 người - như chính tài
liệu của họ đã tự thú nhận[28].
Bước sang năm 1969, "số người Mỹ đã chết trong những tuần lễ đầu lên tới
453, tuần lễ thứ hai là 336, tuần lễ thứ ba là 351; những thiệt hại của phía
Nam Việt Nam (tức quân đội Sài Gòn) còn nặng nề hơn vì lên tới trung bình 500
người mỗi tuần"[29].
Qua những con số thương vong này, có thể hình dung được phần nào sự ác liệt của
cuộc chiến ngày đó - một sự ác liệt mà mỗi bên đều buộc phải chấp nhận nhằm khẳng định ý chí, khẳng định tư thế của
mình trên chiến trường đặng thông qua đó, giành lợi thế trên bàn đàm phán.
Điều này không chỉ được chứng nghiệm trong thỜi
điỂm có tính bước ngoặt lớn - là năm 1968, mà sau đó, còn tái diễn trong
năm 1972 để đi tới Hiệp định Pa-ri tháng 1 năm 1973[30].
Như
vậy, phải thông qua những hoạt động cụ thể trên chiến trường - đặc biệt ở vào
một thời điểm quyết định, quân và dân miền Nam ngày đó mới buộc được phía Mỹ
phải xuống tiếp một nấc thang chiến tranh
bằng việc ngày 31 tháng 10 năm 1968, bỏ
qua sự phản ứng gay gắt của chính quyền Sài Gòn, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã
đơn phương tuyên bố chấm dứt hoàn toàn mọi hành động chống phá nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa - mà không còn đưa ra điều kiện đòi VNDCCH phải ngừng chi viện
cho cách mạng miền Nam; công nhận đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam tại Hội nghị 4 bên ở Pa-ri - mà trước đó phía Mỹ vẫn nhất mực phủ nhận... Buộc
được Mỹ phải đơn phương xuống
tiếp một nấc thang chiến tranh trong khi trên chiến trường, quân số Mỹ, quân
đội Sài Gòn và quân đồng minh tiếp tục tăng đến đỉnh cao là một thắng lợi có ý
nghĩa chiến lược to lớn của phía Việt Nam, là một thành công trong chỉ đạo
chiến lược: kéo Mỹ xuống thang chiến tranh để đánh bại hoàn toàn ý chí xâm
lược của Mỹ.
Nhắc lại một số diễn biến lịch sử
liên quan tới thời kỳ sau "Tết Mậu thân", chúng tôi không nghĩ rằng
đã lột tả được bối cảnh của tình hình mọi mặt rất phức tạp của thời kỳ này cũng
như chưa đề cập trực tiếp sự sai - đúng của các đợt tiến công tháng 5 và tháng
8 năm 1968. Dù vậy, chỉ qua việc điểm lại một số sự kiện lịch sử trên đây,
chúng tôi vẫn cho rằng: Sau tuyên bố ngày
31 tháng 3 năm 1968 của Tổng thống Mỹ Giôn-xơn, VNDCCH không thể nào ngồi vào
bàn đàm phán trực tiếp với phía Mỹ ở tư thế chủ động của người chiến thắng được[31].
Để có được nấc xuống thang chiến tranh mới của Mỹ ngày 31 tháng 10 năm 1968 nói
trên, VNDCCH buộc phải dồn hết tâm
lực và chấp nhận sự hy sinh bằng cách đẩy mạnh các hoạt động tiến công - bằng
cách dấn tới để khẳng định Tư thẾ đàm phán, buộc Mỹ phải đàm phán theo yêu cầu của mình. Nếu nói như một tác giả
Mỹ vừa dẫn trên đây, trong những đợt
tiến công tháng 5 và tháng 8, "hình như cả hai bên đều tham gia vào cuộc phô trương công khai sức mạnh ý
chí của mình" thì đó chỉ là một cách nói tưởng như khách quan nhưng
về mặt nào đó là chưa đầy đủ và chính xác. Bởi vì, với một tiềm lực kinh tế và quân sự như Mỹ, Mỹ có thể phô trương thanh thế và uy lực quân sự ở bất cứ nơi nào mà Mỹ muốn - và
thực tế như ở Cô-xô-vô, ở Áp-ga-ni-xtan hoặc ở I-rắc chẳng hạn, Mỹ đã phô
trương và giành
chiến thắng bằng chiến lược "lấy thịt đè người". Còn như ở hoàn cảnh
năm 1968, chúng tôi cho rằng Việt Nam không hề có ý định "phô trương"
mà thực
chất là đã buộc phải gồng mình lên, chấp
nhận sự hy sinh để biểu hiện sức mạnh ý chí của mình. Buộc phải gồng mình
lên để "biểu hiện sức mạnh ý chí" của mình một cách chủ đích, có ý
thức không bao giờ là đồng nghĩa với "duy
ý chí" hoặc sự "cay
cú"[32] như một số ý
kiến phê phán khi nhận định về vấn đề này.
Download
toàn văn bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
[1] Lâu nay, trong một số công trình và
bài báo viết về kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), cụm từ "Cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu thân 1968" được dùng để
bao quát các hoạt động của quân và dân trên chiến trường miền Nam trong suốt
năm 1968. Ví như, công trình tổng kết Quá trình chiến tranh xâm lược của
đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ, ngụy trên chiến trường B2 (Ban
Tổng kết chiến tranh B2 năm 1984), viết: "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân tuy chưa đạt được mục tiêu chiến lược
một cách trọn vẹn (...) nhưng trên thực tế, ngay trong ĐỢT ĐẦU của cuộc
tiến công (từ ngày 31 tháng 1 đến cuối tháng
2 năm 1968) đã làm đảo lộn mọi tính toán của địch trên chiến trường"
(trang 168). Tác giả Trần Bạch Đằng trong bài Bàn thêm một vài khía
cạnh của cuộc tổng diễn tập chiến lược Mậu thân 1968 đăng trên tạp chí Lịch
sử quân sự số 7.1988, đã cho rằng "HAI ĐỢT MẬU THÂN, nhất là đợt 1, đã
làm choáng váng kẻ thù", "đặc thù của MẬU THÂN ở Sài Gòn là: CẢ HAI
ĐỢT không hề xảy ra một sự đáng tiếc nào". Gần đây, giáo sư Cao Văn Lượng
đã viết ở tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 1-2/1993: "Cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu thân (1968) đã diễn ra thành NHIỀU
ĐỢT...". Theo chúng tôi, chính việc "gọi sự vật không đúng với cái
tên của nó" như vậy đã là một nguyên nhân trực tiếp dẫn tới những nhận
định không thống nhất - thậm chí là mâu thuẫn trong các công trình nghiên cứu
về "Tết Mậu thân".
[3] Hoàng Văn Thái: Mấy vấn đề về
chiến lược trong cuộc tiến công và nổi dậy xuân 1968. Tạp chí Lịch sử
quân sự, số tháng 2 năm 1988.
[4] Trần Bạch Đằng: Mậu thân - cuộc
Tổng diễn tập chiến lược. Tạp chí Lịch sử quân sự, số tháng 2 năm
1988.
[9]Trong và sau "Tết Mậu thân",
quân đội Mỹ trên chiến trường công khai bộc lộ sự tàn bạo của họ bằng cách gây
ra nhiều vụ tàn sát dã man đối với đồng bào miền Nam - mà Mỹ Lai đã là một điển
hình; dội bom đạn ồ ạt xuống vùng ven, vùng nông thôn, vùng giáp ranh... Về
điều này, viên tư lệnh chiến trường mới được cử thay Oét-mo-len là A.Bram đã
tuyên bố: Mỹ sẽ "dùng B.52 ném thật nhiều bom đến mức (...) chỉ cần phái
một đội tuần tra không vũ trang đi xa với những cuốn sổ tay để ghi chép kết
quả" (Hãng tin AP, ngày 29 tháng 6 năm 1968). Vì thế, "nếu
trong nửa cuối năm 1965, mỗi tuần có 50 phi vụ B.52 tại Nam Việt Nam... thì bây
giờ, mỗi tuần có 350 phi vụ B.52 (Thời báo Niu Oóc, ngày 26 tháng 8 năm
1968. Dẫn theo Trần Văn Giàu: Việt Nam giữ vững thành đồng, T5, Sđd, tr.
115-116).
[10] Dẫn theo Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Tiếp
xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước Hội nghị
Pa-ri. Viện Quan hệ quốc tế, H,
1990, tr.243.
[12] Trả lời Thứ trưởng ngoại giao
Ru-ma-ni ngày 17.12.1967 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Dẫn theo Lưu Văn Lợi,
Nguyễn Anh Vũ: Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ. Sđd, tr. 247.
[13] Tuyên
bố của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 3 tháng 4 năm
1968. Dẫn theo Việt Nam - những sự kiện 1954-1975. Nxb Khoa học xã hội,
T2, H, 1976, tr.82.
[16] Pi-tơ
A.Pu-lơ: Nước Mỹ và Đông Dương từ Ru-zơ-ven đến Ních‑xơn.
Sđd, tr.162. Về vấn đề này, tác giả G.C Hê-ring ghi nhận: "Câu trả lời
tích cực của Hà Nội làm cho Oa-sinh-tơn kinh ngạc và nhiều quan chức Mỹ nghi
ngờ Bắc Việt Nam có mưu mẹo khôn ngoan nhằm khai thác tình cảm chống chiến
tranh ở Mỹ. Chính quyền Mỹ không có sự lựa chọn nào khác là chấp nhận đề nghị
thương lượng trực tiếp của Hà Nội, nhưng họ quyết tâm không vội vã lao vào
thương lượng" (Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Sđd, tr.
269).
[18] Hồi ký Giôn-xơn. Tlđd, tr,
430, 431. Cũng cần nhắc lại ở đây rằng, đầu năm 1969, khi mới bước vào Nhà
Trắng, Tổng thống Mỹ Ních-xơn đã làm một cuộc kiểm điểm liên bộ về tình hình
chiến tranh Việt Nam. Trong cuộc kiểm điểm này, theo hồi ký Những năm ở Nhà
Trắng của Kít-xing-gơ thì, người ta dễ dàng nhận thấy "có một trường phái tư tưởng tương đối lạc quan (về thắng lợi của
Mỹ ở Việt Nam - HK), bao gồm đại sứ
quán Mỹ tại Sài Gòn, ông Ét-uốt Bân-cơ, hai vị tổng tham mưu trưởng,
tướng Abram và đô đốc Giôn Mc. Ca-in (John Mc.Cain) - chỉ huy hạm đội Thái Bình
Dương. Nhóm này nghĩ là khi người Bắc Việt Nam chấp nhận đi vào đàm phán hòa
bình thì chính là họ đã thú nhận sự suy yếu của họ trên phương diện quân sự".
Tlđd, tr. 26).
[21] Theo G.A. Am-tơ: "những hoạt
động mới này là nhằm cản trở các cuộc hội đàm hòa bình, mà cuối cùng đã được
bắt đầu ở Pa-ri ngày 13 tháng 5 năm 1968. Rõ ràng, Giôn-xơn muốn thương
lượng trên thế mạnh, và chỉ sau khi giành được những thắng lợi mới ở Việt
Nam". Ngoài ra, "Giôn-xơn (còn) công bố chính quyền ông ta sẽ không
thừa nhận Mặt trận dân tộc giải phóng hay Việt cộng. Hơn nữa, Tổng thống đòi
hai nhượng bộ: Nam Việt Nam được phép xác định tương lai chính trị của mình, và Mỹ được phép duy trì một "sự
có mặt" có thể là quân sự, ở Đông Nam Á" (G.A.Am-tơ: Lời
phán quyết về Việt Nam, Sđd, tr. 229).
[30] Theo Lê Đức Thọ, sau chiến dịch Quảng
Trị năm 1972, tại Pa-ri, Kít-xinh-gơ có nói
đại ý: Nếu chỉ thuần túy về mặt quân sự thôi thì chẳng bên nào lại đánh và chịu tổn
thất đến mức như vậy. Trả lời Kít-xinh-gơ, Lê Đức Thọ cho rằng: "Đó là vấn
đề chính trị, đánh để giành thế mạnh về chính trị trong đàm phán, chứ còn đứng
về quân sự thì không ai vì một mảnh đất nhỏ đổ nát mà đánh đến như thế"
(Lê Đức Thọ: Một số vấn đề tổng kết chiến tranh. Sđd, tr. 67, 68).
[31] Nhiều tác giả Mỹ, ví như G.C. Hê-ring
chẳng hạn, đã nhận định: "Mỗi bên có thể tuyên bố "chiến thắng"
của mình trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu thân, nhưng thế trận của mỗi bên đều
yếu đi nhiều và không bên nào có đủ ảnh hưởng để ép buộc phía bên kia đi đến
một giải pháp". Quả thật, phải hơn 4 năm sau, Hiệp định Pa-ri mới được ký
kết nhưng riêng cuối năm 1968, rõ ràng, Mỹ đã phải xuống tiếp một nấc thang
chiến tranh.
[32] Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng trong
bài viết Mậu thân - cuộc Tổng diễn tập
chiến lược đăng trên tạp chí Lịch
sử quân sự, số 2 năm 1988 đã nhận xét rằng: "Sứ mệnh của Mậu
thân căn bản hoàn thành với đợt 1. Ở đây, bệnh cay cú dẫn chúng ta đi
xa, và do đó, qua đợt 2, vùng nông thôn giải phóng bị thu hẹp và đến đợt 3 thì
trên thực tế, chúng ta để mất gần hết vùng giải phóng".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!