Sự kiện lịch sử “Tết Mậu thân 1968” tại miền Nam Việt Nam
lùi xa đã hơn 1/3 thế kỷ! Nhưng thời gian không hề làm cho sự kiện lịch sử này
bị nguội lạnh mà nó vẫn luôn được thức dậy trong các giới chính trị, quân sự,
sử học, báo chí… cả ở Việt Nam và nước ngoài, đặc biệt là ở Mỹ. Từ bao năm qua
và cho đến hôm nay, đây đã và vẫn đang còn là một chủ đề gây tranh luận. Như
một khối thuỷ tinh nhiều chiều cạnh, “Tết Mậu thân” thâu nạp nhiều nguồn ánh
sáng để tự phản quang thành nhiều diện, nhiều hình. Người đứng ở góc độ này,
tưởng mình đã thấy được toàn thể. Người đứng ở góc độ kia lại như thấy chưa
biết nhận diện ra sao. Có người tự nhận mình mới chỉ nhìn thấy một chiều, một
cạnh khía nhất định.
Trong khuôn khổ tham luận này, chúng tôi muốn đề cập tới
quá trình hình thành ý đồ chiến lược “Tết Mậu thân” của Đảng CSVN - một quá
trình thực ra không đơn giản, không hề chủ quan “duy ý chí” như nhìn nhận của
một số tác giả lâu nay1, với hy vọng sẽ góp phần vào việc
trình bày rõ hơn sự kiện lịch sử trọng đại này.
Cuộc chiến tranh cục bộ - đỉnh cao
nhất trong toàn bộ nỗ lực chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, đến đầu năm
1967, đã bước sang năm thứ ba. Trong khoảng thời gian đó, cho dù phía Mỹ và đồng minh của Mỹ dồn sức hòng
khuất phục ý chí kháng chiến của nhân dân Việt Nam, qua đó, hoàn tất các mục
tiêu chiến lược của cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam trong khoảng thời gian
từ hai năm đến hai năm sáu tháng như kế hoạch đề ra ban đầu… nhưng đã không sao
thực hiện được. Trong khi đó, qua hai năm, quân và dân miền Nam vẫn giữ vững và phát huy mạnh mẽ chiến lược tiến công làm
thất bại một bước quan trọng nỗ lực chiến tranh của địch, giữ vững quyền chủ
động chiến trường. Trên miền Bắc,
trong khói lửa đạn bom, quân và dân miền Bắc vừa đánh trả quyết liệt và hiệu
quả máy bay, tàu chiến Mỹ, vừa giữ vững sản xuất, tăng sức chi viện mạnh mẽ và
liên tục cho cách mạng miền Nam.
Trong khi dồn sức vào các hoạt động
quân sự, cả hai phía Mỹ và Việt Nam đồng thời chú trọng đẩy mạnh các hoạt động
đối ngoại phục vụ cho yêu cầu quân sự, chính trị của mỗi bên. Các hoạt động này
được triển khai khá nhịp nhàng, được cả hai phía tính toán rất kỹ lưỡng, nhằm
những mục tiêu xác định và đều chịu sự tác động của sức ép dư luận quốc tế và
trong nước. “Các quan chức Mỹ về sau tổng kết lại là từ năm 1965 đến năm 1967, đã
có tới 2.000 nỗ lực nhằm bắt đầu các cuộc đàm phán hoà bình. Không bên nào có
thể tỏ ra thờ ơ với những nỗ lực như vậy, nhưng cũng không bên nào muốn có
những nhượng bộ cần thiết để biến các cuộc đàm phán thành hiện thực”2.
Cần mở ngoặc để nói ở đây rằng, nếu chính quyền Mỹ chịu sức ép ngày càng tăng ở
cả trong nước và trên thế giới đòi hỏi phải mở đường đi vào thương lượng thì
Việt Nam cũng đang trong một hoàn cảnh phức tạp. “Do đánh giá cao sức mạnh của
Mỹ, Liên Xô tìm mọi cách hướng Việt Nam đi vào thương lượng với Mỹ khi điều
kiện chưa chín muồi”3. Sự thật, từ năm 1965 đến năm 1968,
Liên Xô đã 24 lần truyền đạt ý kiến của Mỹ cho phía Việt Nam về đàm phán. Trong
khi đó, Trung Quốc lôi kéo muốn Việt Nam ngả theo đường lối Trung Quốc...
Trong khi kiên trì đánh Mỹ, ra sức
tranh thủ dư luận, Việt Nam kiên quyết giữ vững đường lối độc lập, tự chủ. Đầu
năm 1967, trên cơ sở những thắng lợi đã giành được ở cả hai miền Nam, Bắc, bộ
não chỉ đạo cách mạng Việt Nam chủ trương, đã đến lúc, có thể và cần phải chủ động
bước vào một giai đoạn mới của cuộc chiến: vừa
đánh vừa đàm. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 13 (tháng 1.
1967) chủ trương mở mặt trận tiến công địch về ngoại giao và khẳng định “chúng
ta tiến công địch về ngoại giao bây giờ là đúng
lúc”4.
Nghiên cứu kỹ một số bài nói, bài viết
của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước, Quân đội Nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ, có
thể thấy ở đây những tư tưởng chỉ đạo mà nổi bật là: ta biết thắng Mỹ vừa với sức ta; chúng ta biết khởi đầu chiến tranh thì
chúng ta cũng biết kết thúc chiến tranh theo truyền thống quân sự Việt Nam. Phát
biểu tại Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 14 (tháng 1. 1968), Bí thư thứ nhất BCHTW
Lê Duẩn cho rằng: “Lịch sử Việt Nam ta đánh giặc rồi kêu (gọi) giặc; đánh mãi
mãi không được. Nguyễn Trãi trước kia như vậy. Bây giờ ta cũng như vậy”5.
Chính vì thế, nhằm hiện thực hoá chủ
trương vừa đánh vừa đàm mà Hội nghị
Trung ương lần thứ 13 đề ra, phía Việt Nam đã chỉ cần yêu cầu phía Mỹ phải
ngừng ném bom miền Bắc - chứ không còn bao gồm cả việc đòi Mỹ phải rút hết quân
viễn chinh ra khỏi miền Nam như trước đây phía Việt Nam từng tuyên bố. Việc hạ
thấp yêu cầu so với tuyên bố trước năm 1967 là cốt tạo ra đồng thuận cho một
cuộc hoà đàm giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam. Thế nhưng, đáp lại thiện chí
trên đây, phía Mỹ vẫn kiên quyết đòi “có đi có lại” bằng việc đưa ra điều kiện buộc phía Việt Nam phải công khai cam kết
không lợi dụng việc Mỹ ngừng ném bom dể đưa người và vũ khí vào miền Nam.
Thư của Tổng thống Mỹ Giônxơn gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 8.2.1967 thể hiện
rất rõ việc Mỹ còn rất ngoan cố, ý chí xâm lược của Mỹ chưa bị lung lay. Trước
tình hình này, các cơ quan chỉ đạo chiến
lược Việt Nam đã bắt tay khởi thảo kế hoạch nhằm giáng đòn quyết liệt, buộc Mỹ
phải xuống thang chiến tranh, phải ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam.
Trên thực tế, tháng 5 và tháng 6 năm
1967, Bộ Chính trị, Quân Uỷ Trung ương đã mở những cuộc họp bàn về dự thảo kế hoạch chiến lược Đông Xuân
1967-1968 do Tổ kế hoạch thuộc Bộ
Tổng tham mưu QĐNDVN chuẩn bị. Tuy bàn bạc rất tỷ mỷ về tương quan lực lượng
lúc đó nhưng Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cũng mới chỉ dự kiến: Trên cơ sở
phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong năm 1968,
theo phương hướng đánh lớn.
Tiếp đó, từ tháng 7
đến tháng 10 năm 1967, phương án tác chiến chiến lược tiếp tục được bổ sung. Đó
là cả một quá trình tính toán, lường định, hoàn thiện dần từng bước chủ trương
chiến lược giữa Tổng hành dinh với lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường, với các
ngành, các cấp… có liên quan. Trong quá trình này, Tổng hành dinh nhận thấy,
nếu cứ tiếp tục mở các đợt hoạt động quân sự như trước, đánh theo cách
đánh cũ thì khó tận dụng được thời cơ có lợi để tạo nên chuyển biến lớn
trên chiến trường, chiến tranh vẫn diễn ra trong thế nhùng nhằng, dằng co.
Nhưng mặt khác, trước đối thủ có quân số đông (gồm hơn 1 triệu 30 vạn quân chủ
lực), hoả lực mạnh, sức cơ động cao, khả năng tiếp ứng nhanh, lại chiếm ưu thế
áp đảo trên không, trên sông, trên biển… thì phương án bao vây để tiêu diệt lớn đội quân này - như đã từng làm ở
Điện Biên Phủ đối với quân viễn chinh Pháp trước đây, là không hiện thực.
Trong khi “Tổ kế hoạch” còn chưa tìm ra giải pháp thì một số lãnh đạo chủ chốt
trong Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương6 chủ trương: hướng sức mạnh chủ yếu của chiến tranh cách
mạng vào đô thị miền Nam, đánh thẳng vào trung tâm đầu não địch trên toàn chiến
trường. Ngay lập tức, kế hoạch chiến lược được chuẩn bị lại theo phương
hướng mới này. Toàn bộ ý định và quá trình xây dựng dự thảo kế hoạch chiến lược
được giữ bí mật nghiêm ngặt.
Trong 5 ngày từ 20 đến 24.10.1967, Bộ
Chính trị, Quân uỷ Trung ương họp bàn về dự thảo kế hoạch chiến lược năm 1968
và quyết định một phương thức tiến công, một cách đánh chiến lược mới có hiệu
lực cao: bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh
vào các đô thị trên toàn miền Nam. Đây là một quyết định rất táo bạo của
Đảng CSVN và nếu chỉ nhìn vào tương quan lực lượng quân sự thuần tuý lúc bấy giờ (tháng 1. 1967), thì không thể có được chủ
trương táo bạo ấy. Hơn nữa, tại cuộc họp này, Bộ Chính trị nhận thấy cho đến
lúc đó, nhiều nơi, nếu “đánh vào thị xã mà giữ lại, ta cũng chưa làm được” và
“khả năng đánh tiêu diệt của ta còn yếu”7. Nhưng đây là vấn đề
chớp thời cơ, táo bạo, sáng tạo cách đánh mới. Cách mạng Tháng Tám 1945 là như
thế. Về sau này, chiến thắng mùa xuân 1975 cũng là như thế. Trên cơ sở đánh giá
tương quan lực lượng và nhận thấy thế “tiến thoái lưỡng nan” của Mỹ khi năm vận
động tranh cử ở Mỹ đang đến gần, Bộ Chính trị xác định rất rõ: đến thời điểm
này, thời cơ chiến lược đã xuất hiện
cho phép chúng ta có thể và cần phải gấp rút tăng cường lực lượng và sức mạnh
tiến công để xoay chuyển cục diện chiến tranh. Cần nhắc lại ở đây quan điểm
xuyên suốt của Đảng CSVN về sức mạnh
và so sánh lực lượng trong chiến tranh
cách mạng miền Nam. Trong bài viết ở Tạp chí Quân đội nhân dân, tháng 3.1967, Bí thư thứ nhất BCHTW Đảng Lê Duẩn
chỉ rõ: “ Chiến tranh nhân dân ở miền Nam là cuộc tiến công toàn diện của cách mạng miền Nam vào nền tảng thống trị của bọn Mỹ và tay sai chứ không đơn thuần là một cuộc tiến công về quân sự. Sức mạnh của nó
không đơn thuần là sức mạnh quân sự (nhất là trong thời kỳ đầu thì chủ yếu
không phải là sức mạnh quân sự), mà là một sức mạnh tổng hợp mọi mặt về chính
trị -tinh thần, về quân sự, về thế và lực của nhân dân và đất nước (…). Khi so
sánh lực lượng, nói mạnh yếu là nói trong những điều kiện nhất định. Nhất là
phảI xem lực lượng đó với hiệu lực thực tế (efficaicité) trong hành động, trong
cuộc đọ sức trực tiếp với nhau, mà trong hành động thì trên cơ sở những điều
kiện vật chất nào đó, tính năng động chủ quan của con người ( bao gồm cả ý chí,
tài năng, mưu trí sáng tạo) có tác dụng quyết định”8. Trong thư gửi
Khu uỷ Sài Gòn- Gia Định tháng7.1967, Lê Duẩn nhấn mạnh: xét lực lượng so sánh
đôi bên trên chiến trường “là phải xét kết quả tổng hợp các yếu tố vật chất và
tinh thần của các lực lượng chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá mà mỗi bên sử
dụng để chống lại đối phương. Nó không phải là trừu tượng mà là cụ thể, nó
không phải là một tỷ lệ bất biến mà là một so sánh trong vận động, kết quả của
quá trình phát triển biện chứng về số lượng cũng như về chất lượng của các yếu
tố, các lực lượng nói trên”9.
Chính là xuất phát từ quan điểm trên
cũng như xuất phát từ kinh nghiệm của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.1945, của kháng
chiến chống thực dân Pháp và Đồng khởi 1960 mà Đảng CSVN, tại cuộc hội nghị
này, chủ trương Tổng công kích- Tổng khởi
nghĩa trong dịp Tết Mậu thân.
Chủ trương này là cơ sở để các chiến
trường ở miền Nam bắt tay vào chuẩn bị
trực tiếp cho đến Tết Mậu thân 1968.
Sau một thời gian chuẩn bị mọi mặt về
thế trận và lực lượng, trên cơ sở nắm bắt diễn biến tình hình thực tế trên
chiến trường, ở trong nước và trên thế giới có liên quan tới cuộc chiến, tháng
12. 1967, Bộ Chính trị họp, chính thức hạ
quyết tâm mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968, dùng phương
pháp tổng công kích- tổng khởi nghĩa để giáng đòn mãnh liệt vào ý chí của đối
phương. Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 14 (1. 1968) ngay sau đó đã thông qua Nghị
quyết này.
Căn cứ vào Nghị quyết Bộ Chính trị
được Hội nghị BCHTW lần thứ 14 thông qua, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh
đã hoàn chỉnh lần cuối phương án chiến lược Đông- Xuân 1967- 1968 và xác định
cụ thể: cùng với đòn tấn công của bộ đội chủ lực - mà hướng chính là đường 9- Khe Sanh, nhằm thu hút, giam chân lực
lượng chiến lược của địch, một đòn tiến
công chiến lược đánh vào đô thị trên qui mô toàn miền Nam, kết hợp với nổi
dậy của quần chúng nông thôn và đô thị, mở đầu cho tổng công kích- tổng khởi
nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Nam Bộ, Trị - Thiên, Huế và các thành
phố lớn. Thời gian tiến hành được chọn
vào đung đêm giao thừa Tết Mậu thân.
Trở lên, chúng tôi đã tổng quát quá
trình hình thành ý đồ chiến lược của Đảng trong việc quyết định mở cuộc tiến
công Tết Mậu thân 1968. Vấn đề này, từ nhiều năm qua, đặc biệt sau ngày nước
nhà thống nhất, tại các cuộc hội thảo khoa học, trên các trang viết của các
tướng lĩnh hoặc các nhà nghiên cứu…, vẫn chưa được giải quyết thoả đáng. Trong
khi một số nhìn nhận quyết định mở cuộc tiến công “ Tết Mậu thân” là chủ trương
chiến lược táo bạo, sáng tạo thì một số khác lại cho rằng, trong điều kiện
tương quan lực lượng trên chiến trường nghiêng mạnh về phía Mỹ như vào thời
điểm năm 1967, chủ trương ấy là chủ quan, duy ý chí. Ở đây, cần nhìn nhận rõ
hơn quan điểm của Đảng CSVN về vấn đề cốt tử này. Ngay từ năm 1962, khi phân
tích tình hình cách mạng Lào sau chiến thắng Nậm Thà, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn
từng lưu ý các lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam rằng: “Đế quốc Mỹ phải thua
nhưng có thể thua đến mức nào, ta phải thắng nhưng thắng đến mức nào”. Trên cương vị là Bí thư thứ nhất BCHTW
Đảng, ngay từ ngày đó, vấn đề THẮNG MỸ ĐẾN MỨC NÀO đã được đặt ra để suy nghĩ,
để “tính toán, đo lường cho chuẩn xác”.
Trong những năm tiếp theo, vấn đề trên đây thường xuất hiện trong nhiều bài
nói, bài viết, điện chỉ đạo… của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn. Trong thư gửi Khu uỷ
Sài Gòn- Gia Định ngày 1.7.1967, Lê Duẩn viết: “Phấn đấu tiến tới tổng công
kích- tổng khởi nghĩa là quyết tâm cách mạng rất cao, là phương pháp cách mạng
rất quyết liệt, rất triệt để của chúng ta. Song mặt khác, chúng ta phải có sách
lược mềm dẻo và biết thắng với mức độ
thích hợp”. Gần ba tháng sau đó, trong cuộc họp Bộ Chính trị tháng 10. 1967
bàn về “Tết Mậu thân”, Trường Chinh chủ trì cuộc họp, đã kết luận: “Ta tranh
thủ giành thắng lưọi cao nhất, song cũng có thể đạt mức độ thôi”10.
Điều này, một lần nữa được Lê Duẩn nhấn mạnh trong Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ
14 (1.1968): “Vì Mỹ là đế quốc mạnh… cho nên ta phải biết thắng nó, (làm cho)
nó ra được”11.
“Biết
thắng Mỹ” vừa với sức ta và phù hợp với truyền thống quân sự Việt Nam, Đảng
CSVN chủ trương mở cuộc tiến công “Tết Mậu thân” nhằm giáng đòn quyết liệt vào
ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ dù còn rất ngoan cố và hiếu chiến vẫn
phải đơn phương xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán; mở ra một giai
đoạn vừa đánh vừa đàm.
Thực hiện chủ trương chiến lược trên
đây, trước Tết Mậu thân, quân và dân trên chiến trường miền Nam đã vây hãm quân
Mỹ ở Khe Sanh - một vị trí có tầm quan trọng chiến lược ở miền rừng núi phía
tây Quảng Trị. Trong khi Oasinhtơn và Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn phán
đoán Khe Sanh là một "Điện Biên Phủ" trong ý đồ của các cơ quan chiến
lược Việt Nam và họ buộc phải dồn tâm trí, lực lượng ra hướng đường 9 - Khe
Sanh thì đúng vào dịp giao thừa Tết Mậu thân, quân và dân miền Nam bất ngờ tiến
công vào một loạt đô thị - dinh luỹ của đối phương trên khắp chiến trường. Cuộc
tiến công "xuất thần" ấy đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực; phá
huỷ, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh; phá rã chính quyền địch ở nhiều
vùng nông thôn; phá vỡ hệ thống phòng thủ đô thị kiên cố của Mỹ và chính quyền
Sài Gòn trên quy mô rộng lớn; làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng ở
miền Nam. Rõ ràng, "Tết Mậu thân" đã là một phép thử nhiệm màu làm
hiện rõ những mâu thuẫn mà Mỹ và quân đội Sài Gòn đã không sao khắc phục được
trong đường lối và cách thức điều hành chiến tranh; phơi bày toàn bộ sự thất
bại về quân sự, chính trị của phía Mỹ trong suốt những năm chiến tranh cục bộ;
chứng tỏ ý chí, nghị lực, sức mạnh, tài thao lược và sự sáng tạo của quân dân
và các cơ quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam. Thế cho nên, "Tết Mậu
thân" đã giáng đòn quyết liệt vào uy thế của quân đội Mỹ trên chiến trường
Việt Nam, làm suy giảm vị trí và ảnh hưởng của chính quyền và quân đội Sài Gòn
ở cả thành thị và nông thôn, khiến cho giới lãnh đạo nước Mỹ phải bàng hoàng,
sửng sốt và họ buộc phải xem xét lại
chính sách chiến tranh, chiến lược quân sự của Mỹ ở Việt Nam trong mối liên
quan tới chiến lược toàn cầu mà Mỹ đang theo đuổi... dưới sức ép nặng nề của
"Tết Mậu thân". Trong cuộc soát xét về mặt chiến lược này, Oasinhtơn
nhận thấy: cuộc tiến công "Tết Mậu thân" chứng tỏ Mỹ hoàn toàn không
kiểm soát gì được ở đất nước Việt Nam sau cả một quá trình dính líu trực tiếp
và sau cả nỗ lực khổng lồ về quân sự; chứng tỏ nhân dân Việt Nam ủng hộ
"kẻ thù của Mỹ". Chỉ riêng việc hàng bao sư đoàn, trung đoàn Quân
giải phóng rời căn cứ, qua bao làng mạc, thôn ấp, vượt qua bao sông suối, cánh
đồng... để về áp sát vùng ven một loạt đô thị trên toàn miền mà không một người
dân báo cho phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn... đã là một thí dụ. Ngày đó, giới
truyền thông Mỹ đã phải thừa nhận rằng:
sức mạnh kinh tế và quân sự Mỹ là có giới hạn; trong giới hạn đó, "Mỹ
không thể dùng các biện pháp quân sự để thắng cuộc chiến tranh mà lại không xé
tan toàn bộ tổ chức của nước Mỹ và các mối quan hệ quốc tế"12.
Vì thế, cuộc tiến công "Tết" đã làm rung động nước Mỹ, khiến cho đông
đảo càng tầng lớp xã hội Mỹ - kể cả các quan chức cao cấp, các nghị sĩ, các tập
đoàn tài phiệt đầy thế lực ở Mỹ, phải thay đổi quan điểm đối với cuộc chiến
tranh, không còn hậu thuẫn cho chính sách chiến tranh của chính quyền Giônxơn
nữa. Tất cả những điều đó buộc Tổng thống Mỹ Giônxơn, vào đêm 31.3.1968, phải
công khai đơn phương xuống thang chiến tranh, rút bỏ cam kết đưa quân viễn
chinh Mỹ vào cuộc chiến tranh trên bộ ở miền Nam, ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ
tuyến 20 trở ra, cử đại diện đi vào đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại
Pari. Từ đây sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn mới -
giai đoạn vừa đánh vừa đàm, nhằm mục
tiêu chiến lược "đánh cho Mỹ cút,
đánh cho nguỵ nhào" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra trong Thư chúc Tết 1969.
Ở đây, chúng tôi muốn được nhắc lại lời của một nhà báo
Mỹ Đôn Obơcđoiphơ, khi ông nhìn nhận về sự kiện lịch sử Tết Mậu thân: “Đây là
một câu chuyện về một bước ngoặt, khi người dân và các dân tộc đang tìm kiếm
những cách nhìn nhận và hướng đi mới. Miêu tả một hành động quân sự không tính
đến những hậu quả chính trị của nó, hay miêu tả một hành động chính trị mà
không nói đến những yếu tố đang biến chuyển trên chiến trường, tức là mất đi
một nửa”. Quả thật là một nhận xét tinh tế. Ở đây, không hẹn mà nên, Đôn
Obơcđoiphơ đã nhìn thấy yếu tố chính trị sau yếu tố quân sự! Nói cách khác,
“Tết” là phần nổi của tảng băng; nhận thức về phần chìm của nó mới là nhân tố
có ý nghĩa quyết định. Phần chìm của tảng băng đó nằm sâu trong ý đồ chiến
lược: bằng mọi giá phải kéo Mỹ xuống
thang, buộc chúng ngồi vào bàn đàm phán.
Nếu vậy, ý đồ chiến lược “Tết Mậu
thân” không bao giờ đồng nghĩa với sự chủ
quan, duy ý chí. Và như thế, trong thực chất và trên thực tế, “Tết Mậu
thân” đã giành được thắng lợi quyết định, đúng như khát vọng ban đầu của những
người khởi xướng: mong chiến tranh kết thúc cho một nền hoà bình sớm đến trên
toàn cõi Việt Nam bằng việc giáng một đòn mãnh liệt làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc đế quốc Mỹ, dù còn
hiếu chiến và rất ngoan cố vẫn phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm
phán, khởi đầu cho quá trình đi xuống về chiến lược.
Sứ mệnh “Tết Mậu thân” và ý đồ đích thực của
các cơ quan chiến lược Việt Nam khi mở cuộc tiến công xuất thần này là như vậy!
Download
toàn văn bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
1 Ở Việt Nam, trong các cuộc hội thảo
và sách báo viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phần đông các nhà
nghiên cứu đều nhất trí nhận định: trong Tết Mậu thân, quân và dân ta đã giành
được thắng lợi to lớn. Tuy nhiên, có ý kiến trên cơ sở so sánh mục tiêu
đề ra ban đầu cho cuộc tiến công "Tết Mậu thân" và kết quả đạt được
cũng như trên cơ sở tính toán những tổn thất của ta trong và sau
"Tết" đã đi đến kết luận: "Cuộc Tổng tiến công ấy đã mắc sai lầm
là: chủ quan, đánh giá không đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch"
(Lê Đức Thọ: Một số vấn đề về tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử Quân
sự", Nxb. Sự Thật, H, 1989, tr. 51). Thậm chí một số người còn khẳng
định: "Tết Mậu thân 1968 đã không tạo được một bước phát triển đi lên của
chiến tranh cách mạng miền Nam, không thay đổi được cục diện chiến trường có
lợi cho ta; mà làm cho cục diện xấu hơn năm 1968. Cũng có thể nói rằng, nó đã
tạo nên một bước tạm thời đi xuống của cục diện chiến trường miền Nam, buộc
quân và dân ta phải phấn đấu gian khổ, bốn năm sau mới dần hồi phục được"
(Tham luận của Cục khoa học quân sự tại Hội nghị Tổng kết cuộc Tổng tiến công
Tết Mậu thân do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức tháng 3.1986. Lưu tại
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam).
2. G.C. Herring: Cuộc chiến tranh dài
ngày nhất của nước Mỹ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1988, tr. 210
3. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ
Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước- thắng lưọi và bài
học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tr. 66
4. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
tập 28, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2003, tr. 174
5. Bài gỡ băng ghi âm, lưu hồ sơ văn kiện Hội nghị lần thứ
14 BCHTW Đảng khoá III, chưa được Bí thư thứ nhất Lê Duẩn xem lại. Dẫn trong
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, Nxb. CTQG, H,
2004, tr. 37, 38.
6. Trong một bài
viết của mình, Thượng tướng Lê Ngọc Hiền- nguyên tổ trưởng Tổ kế hoạch lúc bấy
giờ, cho biết: Tháng 9.1967, Đại tướng Văn Tiến Dũng gặp và lệnh cho Tổ làm kế
hoạch đánh vào thành phố; sau này Đại tướng Văn Tiến Dũng cho biết đề xuất ấy
là của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn ( Lê Duẩn- một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư
duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam- Nxb Chính trị quốc gia, HN. 2002,
tr. 381).
7. Dẫn trong Biên
bản chép tay Hội nghị Bộ Chính trị, tháng 10. 1967. Tài liệu mật, lưu tại Bộ
môn lịch sử KCCM, Viện LSQSVN
8. Bài viết sau đó được chọn đăng trong Lê Duẩn: Về chiến
tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1993, tr. 295,
297.
9.Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb.
Sự thật, Hà Nội, 1985, tr. 177.
10. Dẫn trong Biên bản chép tay Hội nghị Bộ Chính trị, tháng
10. 1967. Tài liệu mật, lưu tại Bộ môn lịch sử KCCM, Viện LSQSVN.
11. Bài gỡ băng
ghi âm, lưu hồ sơ văn kiện Hội nghị lần thứ 14 BCHTW Đảng khoá III, chưa được
Bí thư thứ nhất Lê Duẩn xem lại. Dẫn trong Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, tập 29, Nxb. CTQG, H, 2004, tr. 37, 38.
12 Bình luận của
Ban biên tập toà soạn báo Tuần tin tức Mỹ, ngày 11.3.1968. Dẫn theo Đôn
Obớcđoiphơ: Tết, Nxb. An Giang trích dịch, 1988, tr. 149.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!