PGS, TS. Hồ Khang
Viện
lịch sử quân sự Việt Nam
Sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của dân tộc Việt Nam, cho đến năm 1974, đã trải qua chặng đường dài hai
mươi năm với biết bao gian khổ hy sinh vì nền tự do, độc lập và vẹn toàn sông
núi của Tổ quốc Việt Nam. Trong khoảng thời gian đó, vượt qua những thử thách
sống còn, toàn dân, toàn quân Việt Nam, triệu người như một đã bền lòng chiến
đấu, vững tin vào thắng lợi cuối cùng, đưa sự nghiệp Đại nghĩa thống nhất
non sông về một mối, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác mà Đồng khởi mùa
Xuân 1960, Tết Mậu Thân 1968, cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và “Điện Biên
Phủ trên không” là những mốc son chói lọi. Những thắng lợi to lớn và toàn diện
trên chiến trường của toàn quân và dân miền Nam đã buộc đối phương phải ký kết Hiệp định Pari
mà ý nghĩa cơ bản nhất của sự kiện quan trọng này là “Mỹ phải ra, quân ta thì ở
lại”, mở ra giai doạn cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Từ sau ngày Hiệp định Pari được ký
kết, tình hình chiến trường miền Nam chuyển biến mau lẹ. Những hành động phá
hoại Hiệp định, lấn chiếm vùng giải phóng của chính quyền và quân đội Sài Gòn
bị quân dân miền Nam trừng trị đích đáng. Ý chí chiến đấu, lực lượng và thế
trận của quân đội Sài Gòn suy giảm mạnh. Thế và lực của phía Việt Nam tăng
nhanh. Trên cơ sở nắm vững những nhân tố tác động tới cuộc chiến, lượng định
đúng xu thế phát triển của tình hình trên chiến trường, trong nước và trên thế
giới có liên quan, bộ não chỉ đạo cách mạng Việt Nam đã hạ quyết tâm động viên
cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam
trong hai năm 1975 và 1976. Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam mà Hội nghị
Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương tháng 9 và tháng 12 năm 1974 thông qua, Tây
Nguyên - trọng điểm là nam Tây Nguyên, được chọn làm hướng tấn công chiến lược
chủ yếu trong năm 1975.
Tây Nguyên - miền đất của nắng gió cao
nguyên và trùng điệp núi rừng là địa bàn cư trú của gần 30 dân tộc anh em sống
gắn bó và một lòng son sắt với cách mạng, với kháng chiến, với Bác Hồ. Miền đất
này còn được biết đến là quê hương của những bản trường ca nổi tiếng như Đam
San, Sin Nhã; của những nhạc cụ âm thanh trầm hùng như đàn Tơ-rưng, Klông-pút…
Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ, do nằm ở vị trí chiến
lược trọng yếu, Tây Nguyên là địa bàn giành giật quyết liệt giữa cách mạng và
phản cách mạng. Kẻ thù dày công xây dựng nơi đây thành căn cứ chiến lược lớn
hòng khống chế để tiến tới đè bẹp cách mạng ba nước Đông Dương, ngăn chặn sự
chi viện từ Bắc vào Nam và từ rừng núi xuống đồng bằng. Về phía quân dân miền
Nam, những năm chống Mỹ xâm lược, Tây Nguyên được xác định là chiến trường tác
chiến lớn của bộ đội chủ lực. Các chiến dịch tiến công Plây Me, Đắc Tô, Búp
Răng - Đức Lập, Bắc Tây Nguyên của chủ lực Quân giải phóng là mốc son trong
trang sử truyền thống chống Mỹ, cứu nước của lực lượng vũ trang và đồng bào các
dân tộc Tây Nguyên.
Và mùa Xuân 1975, Tây Nguyên trở thành
nơi diễn ra đòn tiến công chiến lược dẫn tới sự suy sụp hoàn toàn của chính
quyền và quân đội Sài Gòn sau đó.
Trên thực tế, ngay khi Hội nghị Bộ
Chính trị (họp từ ngày 18.12.1974 đến ngày 8.1.1975) kết thúc, Thường trực Quân
uỷ Trung ương họp bàn việc triển khai thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ
Chính trị. Tham dự cuộc họp còn có các đồng chí Chu Huy Mân, Võ Chí Công, Lê
Trọng Tấn, Hoàng Minh Thảo. Trọng tâm cuộc họp bàn về chiến dịch Tây Nguyên.
Những người tham dự đều thống nhất cao việc chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu đột
phá có ý nghĩa then chốt quyết định, đảm bảo cho chiến dịch Tây Nguyên giành
thắng lợi.
Một ngày sau Tết Âm lịch, tại sở chỉ
huy của đại diện Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh bên bờ dòng Đắc Đam phía
tây Buôn Ma Thuột, thay mặt Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, Đại tướng
Văn Tiến Dũng công bố quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây
Nguyên. Theo đó, Trung tướng Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp -
Chính uỷ, Bí thư Đảng uỷ chiến dịch… Thường vụ Khu uỷ Khu 5 cử đồng chí Bùi San
- Phó Bí thư Khu uỷ và đồng chí Nguyễn Cần - Bí thư Tỉnh uỷ Đắc Lắc, tham gia Đảng
uỷ và Bộ Tư lệnh chiến dịch, trực tiếp chỉ đạo các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc
Lắc phối hợp với bộ đội chủ lực. Bộ phận đại diện cho Quân uỷ và Bộ Tổng Tư
lệnh do Đại tướng Văn Tiến Dũng đúng đầu cũng được đặt tại Tây Nguyên, trực
tiếp chỉ đạo quá trình chuẩn bị và thực hành chiến dịch.
Vào lúc đó, trên toàn chiến trường
miền Nam, quân chủ lực Sài Gòn có 13 sư đoàn, 18 liên đoàn biệt động, 6 sư đoàn
không quân, 2.000 xe tăng, thiết giáp, 1.500 khẩu đại bác các loại, nhiều hạm
đội trên sông, hơn một triệu cảnh sát và phòng vệ dân sự. Đó là một lực lượng
mạnh. Tuy vậy, do nghệ thuật điều hành chiến tranh của quân dân miền Nam, chủ
lực địch buộc phải căng ra và bị ghìm chặt ở hai đầu chiến tuyến là Huế - Đà
Nẵng ở phía bắc và Sài Gòn ở phía nam. Quãng giữa gồm các tỉnh duyên hải Nam
Trung Bộ và Tây Nguyên là địa bàn Quân khu 2, địch bố trí 2 sư đoàn, 8 liên
đoàn biệt động, 283 khẩu đại bác, 477 xe tăng, thiết giáp, 2 sư đoàn không
quân. Riêng ở Tây Nguyên - nơi đặt sở chỉ huy Quân đoàn 2, Quân khu 2 quân đội
Sài Gòn, đối phương bố trí Sư đoàn 2 (thiếu), 7 liên đoàn biệt động, 1 sư đoàn
không quân, 5 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo, 37 tiểu đoàn
bảo an. Phần lớn lực lượng này được bố trí theo thế phòng ngự hoàn chỉnh, tập
trung chủ yếu ở hướng bắc Tây Nguyên, phòng giữ Kon Tum, Plây Cu; hướng nam Tây
Nguyên được xem là hậu phương, lực lượng phòng giữ mỏng yếu hơn.
Quyết tâm giành thắng lợi trong chiến dịch mở đầu kế
hoạch chiến lược năm 1975, bộ đội Việt Nam tập trung vào đây một bộ phận lực
lượng mạnh gồm 5 sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng cùng lực lượng vũ
trang địa phương và các đoàn cán bộ chính trị của Đắc Lắc, Kon Tum, Gia Lai,
Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà. Để đảm bảo chắc thắng, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã
xây dựng một kế hoạch tiến công địch rất công phu, chủ trương nghi binh “lừa
địch” ở hướng bắc là Plây Cu và Kon Tum, khiến phần lớn chủ lực địch bị ghìm
chặt trên hướng này; đồng thời cắt các trục đường 19, 14, 21 nhằm ngăn chặn
triệt để mọi sự ứng cứu của địch từ phía bắc xuống phía nam cũng như đồng bằng
lên Tây Nguyên, đánh Đức Lập và Thuần Mẫn khiến Buôn Ma Thuột trở nên bị cô
lập; tập trung lực lượng chủ yếu giáng một đòn quyết định giải phóng thị xã
Buôn Ma Thuột và sẵn sàng đánh bại các hoạt động phản kích của địch.
Theo phương hướng đó, quân và dân miền
Nam khẩn trương chuẩn bị mọi mặt với tinh thần “Mừng Đảng, mừng Xuân, ra
quân đại thắng, quét sạch quân thù, giải phóng Tây Nguyên”. Dưới tán rừng
bạt ngàn, các đơn vị bộ binh, công binh, pháo binh, cao xạ, xe tăng, thông tin,
vận tải, hậu cần… hối hả triển khai lực lượng và phương tiện, làm đường, bắc
cầu, tập kết vũ khí, đạn dược, xăng dầu, lương thực, thuốc men. Nhằm giữ vững
bí mật tuyệt đối quá trình chuẩn bị và để củng cố thêm sai lầm của địch, bộ đội
giải phóng đồng thời tiến hành một loạt biện pháp nghi binh trên hướng Kon Tum,
Plây Cu.
Ngày 4.3.1975, chiến dịch Tây Nguyên
mở màn. Quân dân miền Nam nhanh chóng cắt đứt các tuyến giao thông huyết mạch
nối Tây Nguyên với các tỉnh đồng bằng, nối phía nam với phía bắc Tây Nguyên;
tiếp tục tiến công ghìm chặt địch trên hướng bắc - Kon Tum và Plây Cu, đánh
chiếm hai mục tiêu quan trọng của chiến dịch là chi khu quân sự Thuần Mẫn và
quận lỵ Đức Lập - tuyến phòng thủ vững chắc của địch trên đường 14 phía tây nam
Buôn Ma Thuột. Sau 6 ngày đêm chiến đấu, bộ đội giải phóng đã hoàn toàn bao vây
cô lập thị xã này của địch.
Đối với chiến trường miền Nam, Buôn Ma
Thuột là địa bàn xung yếu, có tầm quan trọng chiến lược. Nếu chiếm được Buôn Ma
Thuột, sẽ tạo được bàn đạp giải phóng Tây Nguyên, uy hiếp các tỉnh đồng bằng
ven biển miền Trung và mở ra hướng quan trọng tiến công miền Đông Nam Bộ và Sài
Gòn. Thế nhưng, do phán đoán sai lầm ý đồ tiến công của bộ đội giải phóng, nên
tại đây địch chỉ bố trí một lực lượng khoảng chừng 8.000 tên, gồm một trung
đoàn thiếu, 1 tiểu đoàn xe bọc thép, 1 tiểu đoàn pháo binh, quân hậu cứ của sư
đoàn bộ Sư đoàn 23 và hậu cứ của một số trung đoàn cùng một số đơn vị bảo an,
dân vệ và cảnh sát. Là tỉnh lỵ của Đắc Lắc, bấy giờ, Buôn Mê Thuột có khoảng 15
vạn dân, địa hình tương đối bằng phẳng, ít sông suối chia cắt, xung quanh có
một số điểm cao độc lập.
0 giờ 35 phút ngày 10.3.1975, cuộc
tiến công mục tiêu then chốt quyết định Buôn Mê Thuột bắt đầu. Bằng sức mạnh
của bốn cánh quân chủ lực binh chủng hợp thành kết hợp với các đơn vị tinh
nhuệ, chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng tiến công đã đập vỡ 2 đầu não chỉ
huy của địch là sở chỉ huy Sư đoàn 23 và sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc, nhanh
chóng đánh chiếm các mục tiêu. Phối hợp với bộ đội, nhân dân các dân tộc trong thị
xã lùng bắt bọn ác ôn, tề điệp, giành quyền làm chủ phường ấp. 10 giờ 30 phút
ngày 11.3, Buôn Mê Thuột hoàn toàn giải phóng.
Sau chiến thắng vang dội này, trong
các ngày từ 12 đến 17.3, quân giải phóng chuyển ngay sang đánh bại cuộc phản
kích của Sư đoàn 23 và Liên đoàn 21 biệt động quân ở khu vực Nông Trại - Phước
An, phía đông thị xã và tây sân bay Hoà Bình; xoá sổ toàn bộ lực lưọng phản
kích đông tới 5.600 tên. Cố gắng cuối cùng của địch trên chiến trường cao
nguyên hoàn toàn bị đập tan. Sài Gòn hoang mang. Phối hợp với Tây Nguyên, quân
dân các địa phương dồn dập tiến công và nổi dậy. Mọi toan tính cứu nguy cho Tây
Nguyên của Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn trở nên bất
lực. Tổng thống Thiệu quyết định rút bỏ địa bàn chiến lược trọng yếu này, về
giữ khu vực các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung.
Thế nhưng, cuộc tháo chạy khỏi Tây
Nguyên của địch không nằm ngoài lường định của Tổng hành dinh tại Hà Nội. Ngay
từ ngày 13.3, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã chỉ thị cho Bộ Tư lệnh
chiến dịch ngay lập tức hình thành kế hoạch truy kích địch rút bỏ Tây Nguyên.
Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, từ ngày17 đến ngày
24.3, quân giải phóng chặn đánh quyết liệt, truy kích ráo riết quân địch rút
chạy trên tuyến đưòng 7, làm thất bại âm mưu co cụm ở đồng bằng của địch.
Chiến dịch Tây Nguyên nổ ra và dồn dập
thắng lợi là cơ sở rất quan trọng để Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương trong
cuộc họp ngày 18.3 hạ quyết tâm chuyển sang thực hiện phương án thời cơ: tập
trung sức mạnh của cả nước, hoàn thành
sự nghiệp giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Ngày 24.3, chiến dịch Tây Nguyên kết
thúc. Hơn 10 vạn tên địch bị loại khỏi vòng chiến đấu. Hơn 60 vạn đồng bào các
dân tộc anh em Tây Nguyên từ đây trở thành người chủ trên quê hương mình. Khắp
mọi buôn làng, phường, phố, cờ đỏ sao vàng và cờ Mặt trận nửa đỏ nửa xanh phấp
phới tung bay trong gió lộng cao nguyên.
Thừa thắng, các sư đoàn chủ lực của bộ
đội giải phóng được lệnh từ Tây Nguyên, theo các trục đường 7, 19 và 21 phát
triển tiến công xuống các tỉnh duyên hải miền Trung.
Trước bão táp tiến công và nổi dậy của
quân và dân miền Nam, toàn bộ lực lượng còn lại của Quân đoàn 2 quân đội Sài
Gòn tan rã, các tỉnh và thành phố còn lại của Quân khu 2 địch như Bình Định,
Phú Yên, Nha Trang, quân cảng Cam Ranh nhanh chóng được giải phóng. Địch vội
vàng sáp nhập Ninh Thuận và Bình Thuận vốn thuộc Quân khu 2 vào Quân khu 3 hòng
tăng thêm khả năng chống đỡ với cuộc tiến công của quân giải phóng, bảo vệ dinh
luỹ Sài Gòn từ xa…
Cùng lúc, ở chiến tuyến phía Bắc quân giải
phóng tiến công giải phóng thị xã và toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Ngày 19.3, địch
quyết định rút bỏ Trị - Thiên - Huế để co cụm lực lượng về giữ Đà Nẵng. Ở Quân
khu 5, Sư đoàn 2 cùng lực lượng vũ trang tại chỗ đánh chiếm quận lỵ Tiên Phước,
Trà My, sẵn sằng giải phóng hoàn toàn Quảng Ngãi hoặc phối hợp với chủ lực của
Bộ bao vây tiến công vào Đà Nẵng từ phía nam.
Như thế, chiến dịch Tây Nguyên và bước
phát triển tiếp theo của nó khiến cho thế trận chiến lược địch bị rung chuyển
dữ dội, địch bị suy sụp mạnh cả về tinh thần và lực lượng. Chiến thắng đó tạo
thuận lợi cho đòn tiến công chiến lược Huế - Đà Nẵng. Và trong những điều kiện
ấy, đúng vào ngày chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng - ngày 24.3.1975, Hội nghị
Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đi tới nhận định: “Cuộc Tổng tiến công
chiến lược của ta bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ chiến lược mới đã
đến”. Hội nghị quyết định: Nắm vững thời cơ chiến lược, tranh thủ thời
gian cao độ, tập trung sức mạnh của cả nước, kiên quyết giải phóng Sài Gòn
trước mùa mưa 1975.
Diễn biến chiến trường sau chiến dịch
Tây Nguyên đã chứng tỏ quyết tâm chiến lược trên đây của Bộ Chính trị và Quân
uỷ Trung ương là sáng tạo, kịp thời và chính xác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!