PGS, TS. Hồ Khang[*]
Chuẩn
bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân là cả một quá trình nỗ lực
phấn đầu, khắc phục nhiều gian khổ, khó khăn của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo
chiến lược, của các cấp lãnh đạo, chỉ huy trên chiến trường, của quân và dân
hai miền Nam, Bắc Việt Nam.
Ngay
từ tháng 5 năm 1967, sau thắng lợi đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ
hai, mùa khô 1966-1967, căn cứ vào Dự thảo kế hoạch tác chiến chiến lược đã
được Bộ Chính trị Trung ương Đảng LĐVN thông qua lần 1, Quân ủy Trung ương và
Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các chiến trường vừa đẩy mạnh đợt tác chiến mùa mưa
1967, vừa gấp rút bắt tay chuẩn bị cho cuộc tiến giữa năm 1968, trên thực tế,
quân và dân trên cả hai miền đã đi vào chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy
năm 1968.
Trên
miền Bắc, cuối tháng 7 năm 1967, Quân ủy Trung ương mở các lớp tập huấn nhằm
quán triệt về tình hình và nhiệm vụ mới cho cán bộ cao cấp, trung cấp trong
toàn quân. Tháng 8 năm 1967, lực lượng vũ trang nhân dân mở cuộc vận động lớn “Nâng cao chất lượng, phát huy sức mạnh chiến
đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Nhằm
đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Binh
chủng Đặc công. Ngày 19 tháng 3 năm 1967, Binh chủng Đặc công chính thức ra
đời. Ngay sau đó, Binh chủng được lệnh khẩn trương tổ chức các đơn vị đặc công
tăng cường cho các chiến trường, bổ túc, đào tạo cán bộ đặc công cho toàn quân.
Trong năm 1967, Binh chủng đã huấn luyện được 3.835 đặc công, đào tạo
và bổ túc gần 1.000 cán bộ trung đội, đại đội và tiểu đoàn, tăng cường cho
chiến trường miền Nam 2.563 người.
Để
đảm bảo lực lượng chiến đấu trên chiến trường miền Nam và ở hậu phương miền Bắc, công
tác tuyển quân được xúc tiến mạnh mẽ. Chỉ một thời gian ngắn, hàng vạn nam nữ
thanh niên có trình độ văn hóa, có giác ngộ chính trị, có sức khỏe được động
viên vào lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong. Trong năm 1967, số quân
rời hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam chiến đấu tăng 1,5 lần so với
năm 1966. Từ quý II năm 1967 đến quý I năm 1968, 15 vạn 5 ngàn quân đã được đưa
vào miền Nam.
Trong hơn 2 tháng, nghĩa là từ cuối tháng 12 năm 1967 đến cuối tháng 1 năm
1968, miền Bắc tổ chức chuyển vào chiến trường một khối lượng vật chất gồm 3
vạn tấn; riêng mặt trận Thừa Thiên-Huế, Binh trạm 42 tổ chức chuyển gấp 3.000
tấn lương thực, vũ khí, đạn dược phục vụ cho việc đánh chiếm Huế.
Trên
tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, Đoàn
559 nhanh chóng mở rộng mạng đường, tăng thêm lực lượng và phương tiện, cải
tiến phương pháp vận chuyển, bảo vệ vận chuyển. Đến cuối năm 1967, tuyến vận
tải chiến lược tiếp tục vươn sâu xuống các mặt trận, vươn xa về phía nam với
mạng trục ngang 800km, mạng trục dọc 3.000km, mạng đường vòng tránh 500km và hệ
thống binh trạm, kho tàng, bến bãi ẩn dưới tán cây rừng Trường Sơn. Nhờ đó, 6
tháng cuối năm 1967, tuyến vận tải chiến lược đã nhận từ miền bắc, vận chuyển
vào Nam một khối lượng vật chất lớn gấp 6 lần năm 1965, đảm bảo hành quân cho
hàng chục vạn lượt người từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc.
Được
miền Bắc dồn sức chi viện, lực lượng cách mạng miền Nam có bước phát triển nhanh chóng.
Đến cuối năm 1967, lực lượng vũ trang Quân giải phóng lên tới 220.000 quân chủ
lực và 57.000 quân địa phương, chưa kể dân quân, du kích, tự vệ[1]. Ngoài số hiện
có, các chiến trường còn tổ chức thêm một số đơn vị nhằm đáp ứng đòi hỏi của
tình hình và nhiệm vụ mới: Miền Đông Nam
Bộ thành lập Trung đoàn Quyết thắng, Khu
5 thành lập Trung đoàn 401 đặc công, Đồng bằng sông Cửu Long, Quân khu 8 thành lập 2 tiểu đoàn và tổ
chức lại chủ lực Quân khu thành 2 trung đoàn; Quân khu 9 thành lập thêm Tiểu đoàn 307, đồng thời tổ chức chủ lực
Quân khu thành 1 lữ đoàn và 5 tiểu đoàn.
Cần
lưu ý ở đây rằng, tại miền Nam, các chiến trường dự kiến đến giữa năm 1968 mới
bắt đầu mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy và bắt tay chuẩn bị theo dự kiến đó.
Thế nhưng, tháng 10 năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp bàn và quyết
định thời điểm bắt đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Nguyên đán
năm Mậu thân 1968. Với thời gian còn 3 tháng, việc chuẩn bị trở nên cập rập.
Trong một thời gian ngắn, các chiến trường, các mặt trận, các địa phương phải
khẩn trương hoàn chỉnh phương án, kế hoạch công kích, khởi nghĩa; tổ chức, điều
động, bố trí lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị và binh vận; phân chia
chiến trường; tổ chức hệ thống đảm bảo hậu cần; triển khai mạng lưới giao liên
từ căn cứ tới vùng ven vào nội thành; chuẩn bị khu vực ém giấu lực lượng, vũ
khí và các bàn đạp xuất phát tiến công; tổ chức điều tra các mục tiêu và nắm
tình hình địch ở nội đô… Để khắc phục mâu thuẫn giữa thời gian quá ngắn và nội
dung chuẩn bị quá nhiều, các chiến trường đã phân cấp, phân hướng; trên, dưới đồng thời chuẩn bị.
Tại
chiến trường miền Đông Nam Bộ, tháng
10 năm 1967, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải thể Quân khu I miền Đông,
Quân khu IV Sài Gòn – Gia Định, thành lập Khu
trọng điểm gồm Sài Gòn – Gia Định và một số địa phương thuộc các tỉnh bao
quanh như Long An, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Biên Hòa. Trên cơ sở “Kế hoạch X”
được khởi thảo cuối năm 1964 và được bí mật chuẩn bị trong các năm sau đó[2], giờ đây Trung
ương Cục quyết định chia Khu trọng điểm thành
6 phân khu. 5 phân khu vòng ngoài
được lập ra với ý nghĩa lấy Sài Gòn, Chợ Lớn và tỉnh lỵ Gia Định làm mục tiêu
tiến công và các vùng bao quanh là những bàn đạp xuất phát tiến công. Về địa
hình, 5 phân khu này có vùng nông thôn, vùng ven đô và một số quận nội thành. Ở
nội thành có phân khu 6. Đây là phân khu không bao gồm các khu vực địa lý mà
chỉ phụ trách các lực lượng quân sự, chính trị hoạt động trong nội thành.
Ở
các phân khu, Trung ương Cục chỉ định Phân khu ủy và Bộ chỉ huy phân khu. Mỗi
Phân khu ủy chia làm hai bộ phận, một bộ phận chỉ đạo các hoạt động trên địa
bàn nông thôn và một bộ phận chỉ đạo các hoạt động trên địa bàn đô thị thuộc
phân khu. Các phân khu ủy chịu sự chỉ đạo trực
tiếp của Khu ủy Khu trọng điểm do Nguyễn Văn Linh làm bí thư. Về mặt quân
sự, Trung ương Cục quyết định thành lập hai Bộ chỉ huy tiền phương: Bộ Chỉ huy tiền phương 1 (hoặc gọi là Bộ
Tư lệnh Tiền phương Bắc) do Trần Văn Trà làm Tư lệnh, phụ trách các mũi phía
Đông, phía Bắc và các đơn vị chủ lực Miền; Bộ
Chỉ huy tiền phương 2 (hoặc còn gọi là Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam) do Võ
Văn Kiệt làm Tư lệnh, phụ trách các mũi phía Nam, Tây Nam và các lực lượng nội
thành. Toàn bộ các lực lượng vũ trang chiến đấu trên Mặt trận Sài Gòn – Gia
Định được chia làm 3 khối. Khối biệt động
thành gồm hơn 100 cán bộ, chiến sĩ biệt động từ Đoàn F100 giải thể, tổ chức
thành 3 cụm, mỗi cụm phân thành từng đội. Nhiệm vụ của Khối là đồng loạt đánh
chiếm các mục tiêu Bộ Tổng tham mưu chính quyền Sài Gòn, dinh Độc Lập, Đài phát
thanh, Bộ Tư lệnh hải quân, Tòa Đại sứ Mỹ[3], Biệt khu Thủ
đô, Khám Chí Hòa, Tổng nha cảnh sát. Theo kế hoạch, sau khi đánh chiếm, các đội
biệt động sẽ phải trụ lại trong khoảng thời gian từ nửa giờ đến 2 giờ, chờ các
tiểu đoàn mũi nhọn và lực lượng thanh niên, sinh viên đến tiếp ứng[4].
-
Khối các Tiểu đoàn mũi nhọn và các
lực lượng đặc công của các phân khu 1, 2, 3, 4, 5. Mỗi phân khu có từ 4 đến 6
tiểu đoàn mũi nhọn hoặc tiểu đoàn đặc công. Các tiểu đoàn này được tổ chức và
trang bị gọn nhẹ, xuất phát từ các căn cứ bàn đạp, dùng phương pháp bôn tập luồn sâu vào tiếp ứng cho các
đội biệt động trong nội thành, đánh địch phản kích, mở rộng khu vực kiểm soát.
Một số tiểu đoàn mũi nhọn, tiểu đoàn đặc công các phân khu được giao nhiệm vụ
đánh chiếm các mục tiêu như sân bay Tân Sơn Nhất, cầu Bình Lợi, cầu Xa Lộ, kho
quân cụ Gò Vấp…
-
Khối chủ lực Miền được tăng cường
thêm 1 trung đoàn bộ binh của Mặt trận Tây Nguyên và một số đơn vị binh chủng
từ miền Bắc vào, bao gồm 3 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn pháo binh, 1 trung đoàn
bộ binh và các đơn vị binh chủng như công binh, đặc công, thông tinh, phòng
hóa… Tất cả các đơn vị này được bố trí ở
khu vực vùng ven trên hướng Đông, hướng Bắc và Tây Bắc Sài Gòn, có nhiệm vụ
chặn đánh các sư đoàn chủ lực Mỹ, quân đội Sài Gòn; không cho chúng quay về ứng
cứu cho khu vực nội thành.
Bên
cạnh lực lượng vũ trang, cơ sở chính trị nội
– ngoại thành cũng được gấp rút phát triển. Đến cuối năm 1967, ở nội thành, đã
có được 19 cơ sở chính trị gồm 325 gia đình. Phần lớn các gia đình này đều ở
gần các mục tiêu đánh chiếm của các đội biệt động. Quân giải phóng đã tạo được 400 điểm ém
giấu lực lượng, vũ khí, trang bị trong nội thành và các khu vực ven đô. Tổ chức
Đảng và các đoàn thể cách mạng (công đoàn, thanh niên, phụ nữ, nông hội…) đều
được xây dựng ở các quận, huyện nội ngoại thành[5]. Nhìn chung, so
với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra thì lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh
quần chúng nội, ngoại thành còn yếu. Nhiều căn cứ, lõm du kích, lõm chính trị
bị đánh tróc, nhất là ở địa bàn Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp.
Để
đảm bảo tiếp tế vũ khí, lương thực cho lực lượng vũ trang, Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền tổ chức 5 đoàn hậu cần khu vực tương đương 5 trung đoàn. Ngoài các
đoàn hậu cần, lực lượng vận chuyển vũ khí hoạt động trên địa bàn vùng ven Sài
Gòn cũng được tổ chức và tăng cường. Đến cuối năm 1967, Nam Bộ nhận được hơn
5.000 khẩu súng bộ binh, trong đó có súng B.40, B.41. Nhân dân vùng ven thành
lập các đội cứu thương, tải thương, tiếp tế hậu cần cho bộ đội. Hàng vạn lượt
người đã tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực từ căn cứ về vùng ven.
Tại
chiến trường các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long, Quân khu 8, Quân khu 9 cũng gấp rút hoàn chỉnh phương án tổng tiến
công và nổi dậy, lấy thị xã, thị trấn, quận lỵ trên địa bàn quân khu làm hướng
tấn công chính. Bằng cách động viên lực lượng tại chỗ, các quân khu này đã
thành lập thêm một số đơn vị bộ đội chủ lực trực thuộc Quân khu, tỉnh, huyện.
Ở Khu 6, trong điều kiện địch càn quét,
đánh phá ác liệt, sự liên lạc giữa Trung ương Cục và Quân khu gặp nhiều khó
khăn, mãi tới ngày 8 tháng 1 năm 1968, Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu
mới nhận được chủ trương và nhiệm vụ cụ thể của trên giao cho Quân khu. Dù vậy,
với ý thức chấp hành mệnh lệnh và quyết tâm cao, Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu
lập tức họp bàn biện pháp thực hiện và quyết định chọn Đà Lạt, Phan Thiết là
trọng điểm tổng tiến công và nổi dậy của Quân khu.
Khu 5, được
chia thành bốn hướng tiến công: Hướng
Quảng Nam – Đà Nẵng, hướng Bình Định (bao gồm cả An Khê), hướng Tây Nguyên và
hướng Phú Yên – Khánh Hòa. Trong kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy của Quân
khu, tỉnh Quảng Đà được xác định là chiến
trường chính và thành phố Đà Nẵng là trọng điểm. Tháng 7 năm 1967, Bộ Tư
lệnh Quân khu thành lập Mặt trận 4 để
thống nhất chỉ huy tất cả các đơn vị vũ trang chiến đấu trên mặt trận này. Vào
lúc thành lập, Mặt trận 4 bao gồm toàn bộ lực lượng vũ trang của Tỉnh đội Quảng
Đà, của Thành đội Đà Nẵng và một số đơn vị bổ sung của Quân khu. Trước cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy, Mặt trận được tăng cường thêm 2 trung đoàn pháo
binh, 1 trung đoàn bộ binh từ miền Bắc mới hành quân vào. Tháng 11 năm 1967,
Quân khu thành lập trung đoàn đặc công đầu tiên của Quân khu, sử dụng để đánh
chiếm thị xã Quảng Ngãi. Đội quân chính trị được động viên lên tới 20 vạn
người, tổ chức thành từng đại đội hoặc tiểu đoàn, do các lãnh đạo trong cấp ủy
Đảng ở các địa phương phụ trách. Theo kế hoạch, khi tiến công và nổi dậy ở đô
thị nổ ra, lực lượng này sẽ từ ngoài kéo vào, phối hợp với quần chúng ở nội đô
khởi nghĩa giành chính quyền.
Ở Trị - Thiên, chuẩn
bị cho tổng tiến công và nổi dậy, từ tháng 5 năm 1967, Trung ương Đảng chuẩn y
việc tổ chức lại hệ thống lãnh đạo, chỉ huy cho phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ
quân sự mới đối với chiến trường quan trọng này. Theo đó, các tỉnh ủy và tỉnh
đội giải thể. Các huyện ủy đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu ủy. Về mặt
quân sự, trên các hướng, thành lập các đoàn
theo từng khu vực nhằm phân rõ trách nhiệm cho từng cấp chỉ huy trên từng
khu vực mặt trận. Các đoàn chịu sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Quân khu.
Tháng
12 năm 1967, Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu[6] hạ quyết tâm
tiến công và nổi dậy ở Trị - Thiên, xác định mặt trận thành phố Huế là chiến
trường trọng điểm, Quảng Trị và Phú Lộc là hai chiến trường phối hợp. Ban chỉ đạo Tổng tiến công và
nổi dậy toàn Khu và mặt trận Huế do Ban thường vụ Khu ủy và Thường vụ Quân khu
ủy hợp thành. Về quân sự, một Bộ Chỉ huy mặt trận Huế được chỉ định, gồm Tư
lệnh Lê Minh, Chính ủy Lê Chưởng, Phó Tư lệnh Nam Long, Tham mưu trưởng Đặng
Kinh. Theo kế hoạch quân sự, Mặt trận
Huế được chia làm hai cánh, lấy sông Hương làm giới tuyến chiến đấu giữa mỗi
cánh. Cánh Bắc là hướng tiến công chủ yếu, cánh Nam là hướng tiến công quan trọng;
đồng thời là hướng chủ yếu đánh địch phản kích. Kế hoạch khởi nghĩa dự định ngay đêm tiến công và ngày hôm sau sẽ
phát động mạnh mẽ nhân dân thành phố, nhân dân nông thôn tiến hành khởi nghĩa
vũ trang, chiếm toàn bộ thành phố và vùng nông thôn. Để đảm bảo hậu cần tiếp tế
phục vụ tổng tiến công và nổi dậy, Khu ủy và Quân khu ủy thành lập Ban chỉ đạo,
chỉ huy hậu phương toàn khu.
Từ
tháng 12 năm 1967, quân và dân Trị - Thiên khẩn trương hoàn tất các mặt chuẩn
bị. Trước ngày cuộc tiến công và nổi dậy bắt đầu, lực lượng vũ trang Quân khu
có 4 trung đoàn, 4 tiểu đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn đặc công, 15 đội biệt động
thành, một số đơn vị binh chủng. Mỗi huyện trong Quân khu đều có 1 đại đội bộ đội
tập trung và hàng trăm dân quân, du kích. Toàn bộ lực lượng này, ngay từ những
tháng cuối của năm 1967, đã được chấn chỉnh về biên chế, tổ chức; bổ sung quân
số, trang bị; đẩy mạnh việc học tập, rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật – nhất là
cách đánh trong thành phố, phương pháp phối hợp giữa tiến công quân sự và nổi
dậy của quần chúng… Đồng thời, vào lúc đó, các tổ đội vũ trang công tác, các bộ
phận trinh sát chuẩn bị chiến trường đã mưu trí và bí mật tiếp cận các mục tiêu
xung quanh và bên trong Huế như khu vực An Hòa, Mang Cá – nơi bộ tư lệnh sư
đoàn 1 quân đội Sài Gòn đóng bản doanh; sân bay Tây Lộc, khu vực Đại Nội… Cùng
lúc, lực lượng an ninh khu, tỉnh tỏa xuống phối hợp với dân quân, du kích địa
phương mở rộng lực lượng. Trước tháng 11 năm 1967, trên địa bàn Thừa Thiên –
Huế chỉ có 5 đội trinh sát vũ trang hoạt động khá phân tán thì đến đầu tháng 1
năm 1968, Bộ Tư lệnh Mặt trận đã xây dựng được 1 tiểu đoàn và 7 đội trinh sát
an ninh vũ trang với tổng số hơn 400 người.
Ở
nội thành Huế, cho đến trước ngày nổ súng tiến công, đã xây dựng 8 chi bộ Đảng và
100 cơ sở bí mật và nửa bí mật. Để phát động quần chúng nổi dậy, Khu ủy đã mở
nhiều lớp tập huấn cho 700 cán bộ và quần chúng cách mạng cơ sở ở đô thị và
nông thôn đồng bằng vùng địch chiếm. Sau khi kết thúc khóa tập huấn, họ trở về
địa phương, thành lập các đội công tác, làm nòng cốt phát động quần chúng khởi
nghĩa. Về hậu cần, bằng việc thu mua và dựa vào sự đóng góp của nhân dân, hậu
cần Quân khu đã chuẩn bị được gần 2.000 tấn lương thực ở đồng bằng, 1.000 tấn ở
vùng căn cứ, 8 tấn thuốc men và dụng cụ y tế. Để phục vụ bộ đội tiến công,
nhiều địa phương tổ chức các đội vận tải, cứu thương, đào hầm bí mật. Một số xã
phía bắc, phía tây cố đô Huế đẩy mạnh lùng diệt, trấn áp ác ôn, buộc co vào đồn, tạo thêm điều kiện cho việc vận chuyển vũ khí, lương thực và tạo
bàn đạp xuất phát tiến công cho các đơn vị vũ trang. Trong khi đó, phía nam
sông Hương, ở các phường Phú Ninh, Phú Nhuận, Phú Xuân, Phường Đúc, Xuân Giang,
Vĩ Dạ, Vân Dương, Thanh Thủy, các đoàn thể cách mạng phát triển khá nhanh; đặc
biệt từ tháng 12 năm 1967 trở đi, nghĩa là sau khi căn cứ quân sự đối phương ở Phú
Lộc bị đánh chiếm… Mạng lưới giao liên, giao thông, nhờ vậy, được củng cố và
mở rộng; mỗi đêm có đến hàng chục người ra vào nội thành làm nhiệm vụ.
Như
vậy, trong điều kiện thời gian gấp, chiến trường bị chia cắt mạnh, hơn một
triệu quân Mỹ, quân đội Sài Gòn, quân đồng minh với hệ thống đồn bốt, trạm kiểm soát
và bộ máy kìm kẹp cùng mạng lưới tình báo, gián điệp giăng khắp mọi nơi nhưng quá trình chuẩn bị của ta vẫn giữ được
bí mật. Được như vậy là bởi cách mạng miền Nam xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân
ngày càng phát triển trên cả ba vùng chiến lược. Thế trận đó đan cài, xen kẽ
với vùng địch kiểm soát. Tổ chức và con người cài cắm, lồng xen vào hàng
ngũ địch ở nhiều cấp, nhiều nơi. Mặt khác, trong suốt quá trình này, lục lượng cách mạng dựa vào
sự che chở, giúp đỡ, tham gia của đông đảo nhân dân ở vùng giải phóng, vùng
giáp ranh, vùng tranh chấp và vùng địch kiểm soát. Thế trận và lòng dân đó cho phép quân và dân miền Nam trên chiến trường,
trong một khoảng thời gian không nhiều, đã hoàn tất được mọi mặt chuẩn bị với
một khối lượng công việc phức tạp, khó khăn trên quy mô rộng lớn toàn miền từ
rừng núi đến đồng bằng, từ nông thôn tới đô thị, từ vùng giải phóng vào vùng
địch kiểm soát…
Cùng
với quá trình chuẩn bị, các chiến trường đã mở đợt hoạt động Thu Đông 1967. Đợt hoạt động này nằm
trong khuôn khổ giai đoạn 1 của kế
hoạch tác chiến chiến lược. Mục đích của đợt hoạt động này là trực tiếp tạo
thế, tạo lực cho “Tết Mậu Thân”; buộc đối phương phải phân tán chiến lược trên chiến
trường, nghi binh làm lạc hướng chú ý của chúng, tạo thêm điều kiện thuận lợi
cho quá trình chuẩn bị của Quân giải phóng.
Ở vùng ven đô thị và nông thôn, đồng
bằng, lực lượng vũ trang tại chỗ được lệnh duy trì các hoạt động
theo như lệ thường: Đánh phá giao
thông, tập kích các căn cứ quân sự, căn cứ hậu cần và một số mục tiêu trong nội
đô, chặn đánh các cuộc hành quân càn quét của Mỹ, quân đội Sài Gòn, đẩy mạnh
các hoạt động diệt tề, trừ gian, chuẩn bị địa bàn xung quanh các đô thị.
Trong
khi duy trì các hoạt động như lệ thường ở vùng ven và vùng nông thôn đồng bằng, chủ lực Quân giải phóng liên tiếp mở
các chiến dịch có quy mô tương đối lớn ở khu
vực rừng núi nhằm lôi kéo, đặng ghìm chân một bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ tại
vòng ngoài chiến dịch Lộc Ninh – đường 13 và chiến dịch Đắc Tô.
Nhận
xét về chiến dịch Lộc Ninh – đường 13 và chiến dịch Đắc Tô, Bộ Chỉ huy quân sự
Mỹ tại Sài Gòn vẫn chủ quan cho rằng, “đối phương đã bị những thiệt hại nặng nề
đến nỗi nỗ lực chính của Việt cộng và quân Bắc Việt hiện nay phần lớn chỉ giới
hạn ở vùng biên giới Nam Việt Nam”[7]. Còn phía chính
quyền Sài Gòn thì cho rằng “đại để, qua các trận đánh trên, địch (Quân giải
phóng) đã làm những công việc tuyệt vọng và chỉ nhằm gây những tiếng vang yếu
ớt”[8].
Cùng
với các hoạt động trên chiến trường miền Nam trong Thu Đông 1967, cơ quan
chỉ đạo chiến lược đã đề ra các biện pháp nghi binh nhằm đánh lạc hướng sự chú
ý của Bộ Chỉ huy đối phương. Tháng 9 năm 1967, trên báo Nhân dân và Quân đội nhân dân, xuất hiện bài “Thắng lợi lớn, nhiệm vụ lớn” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bài báo
khẳng định lại phương châm đánh
lâu dài và kêu gọi quân và dân chiến trường ra sức bảo tồn lực lượng. Bài báo lập tức được Cục tình báo Trung ương Mỹ
CIA dịch và phân phát qua chi nhánh công khai của nó là Sở thông tin và truyền
thanh nước ngoài. Vào tháng 11 năm 1967, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân
Việt Nam đã phổ biến trực tiếp cho các tư lệnh chiến trường kế hoạch nghi binh
chiến lược. Nhằm mục đích đó, một bản kế
hoạch tác chiến giả được gửi cho các cấp tại chiến trường miền Nam[9]. Trong hồi ký Tường trình của một quân nhân,
Oét-mo-len cho biết, vào tháng 11 năm 1967, quân Mỹ đã thu được một bản tài
liệu quan trọng về kế hoạch quân sự năm 1968 của dối phương ở gần Đắc Tô phía
bắc Tây Nguyên – nơi từ ngày 3 đến ngày 23 tháng 11 năm 1967, Bộ Tư lệnh Quân giải phóng sử dụng một bộ
phận lực lượng gồm 1 sư đoàn tăng cường, 1 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo
binh, 1 tiểu đoàn súng máy cao xạ… mở chiến dịch tiến công nhằm nghi binh “lừa
địch”. Cuốn Cuộc tổng công kích – tổng
khởi nghĩa của Việt cộng của Ban quân sử - Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt
Nam cộng hòa, ghi nhận: “Một bản tài liệu… đã được tìm thấy tại tỉnh Tây Ninh
ngày 25 tháng 11 năm 1967 gồm 10 trang chữ in. Tài liệu đề ngày 1 tháng 9 năm
1967. Tài liệu này cũng như các tài liệu khác của Việt cộng được in trên giấy
báo khổ sách nhỏ và được ngụy trang ngoài bìa thành một cuốn nghiên cứu giáo lý
đạo Phật, tên sách là “Tế độ chúng sinh” của Thượng tọa Thích Minh Tâm, nhà
xuất bản Lục Hòa Tăng. Bên trong tài liệu ghi rõ “tài liệu học tập tình hình
mới, nhiệm vụ mới” cho các cán bộ sơ cấp, đảng viên và quần chúng cảm tình
viên”[10]. Những tài
liệu đó chính là bản kế hoạch tác chiến giả, tài liệu giả được tung vào mà nội
dung của nó, theo Oét-mo-len, càng củng cố thêm nhận định “Việt cộng
đang trong quá trình thất bại lớn mà trận Đắc Tô là bước mở đầu của quá trình
này”. Vì vậy, theo phán đoán của Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn (M.A.C.V)
thì, trong năm 1968, trọng tâm hoạt động
của quân và dân miền Nam sẽ là chống phá “bình định”, mở một số trận đánh
dọc biên giới, tiến công các mục tiêu ở 2 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, tìm cách
bảo tồn lực lượng, cố gắng duy trì mức độ giao tranh như năm 1967 (!).
Xuất
phát từ nhận định, đánh giá về ý đồ và khả năng của Quân giải phóng như vậy, Bộ Chỉ huy quân
sự Mỹ chủ trương ổn định tình hình nội bộ chính quyền và quân đội Sài Gòn, tiếp tục thực hiện biện pháp chiến lược “tìm
diệt” và “bình định”, đẩy mạnh đánh phá khu vực hành lang vận chuyển và triệt
phá căn cứ, kho tàng của ta ở vùng rừng núi. Trong điều kiện Mỹ không còn
khả năng tăng quân lớn, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ - để duy trì thế giằng co, vẫn
quyết định mở cuộc phản công chiến lược lần thứ 3, mùa khô 1967-1968 mà hướng
chủ yếu vẫn là miền Đông Nam Bộ và hướng quan trọng là khu vực Trị - Thiên.
Theo
kế hoạch này, Mỹ sẽ tuần tự tập trung lực lượng đánh vào các mục tiêu trọng
điểm như hệ thống các căn cứ ở miền Đông Nam Bộ, các đầu mối giao thông
trên hành lang vận chuyển Bắc – Nam để hỗ trợ cho quân đội Sài Gòn đẩy mạnh
chương trình “bình định” vùng nông thôn đồng bằng Nam Bộ; ngăn chặn chủ lực ta
ở khu vực tiếp giáp với Lào trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Tại Trị -
Thiên, Oét-mo-len dự kiến sẽ mở bốn cuộc hành quân mang mật danh “York”, càn
quét vùng biên giới Việt – Lào ở 4 tỉnh phía Bắc của miền Nam Việt Nam nhằm lập
lại quyền kiểm soát thung lũng A Sầu…
Như
vậy, theo dự định của cuộc phản công lần này, người ta thấy Bộ Chỉ huy quân sự
Mỹ đã tỏ ra dè dặt trong việc xác định mục tiêu mặc dù có trong tay hơn
1.200.000 quân – trong đó có 486.000 quân Mỹ. Âm mưu của Bộ chỉ huy quân sự Mỹ
tại Sài Gòn và của giới lãnh đạo Oa-sinh-tơn là cố giữ thế giằng co trên chiến trường, tránh mọi sự đảo lộn bất ngờ ở miền Nam Việt Nam, chờ cho kỳ bầu cử
tổng thống Mỹ tháng 11 năm 1968 kết thúc sẽ tính toán bước đi tiếp theo.
Tại
Mỹ, vào những tháng cuối năm 1967, theo lời khuyên của Đin A-che-sơn[11]và nhóm cố vấn
cấp cao về Việt Nam “Những nhà thông thái”, chính quyền Giôn-xơn triển khai
mạnh mẽ chiến dịch tuyên truyền về thắng
lợi của Mỹ ở Việt Nam nhằm chống lại sự xói mòn lòng tin trong dư luận Mỹ
đối với chính quyền. Cố vấn Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ Rốt-xtâu được Giôn-xơn
chỉ định theo dõi mọi nhân vật trong Quốc
hội chống đối đường lối chiến tranh của chính quyền Mỹ tại Việt Nam để có biện pháp đối phó. Giôn-xơn cũng
thành lập Nhóm thông tin về Việt Nam nằm
trong văn phòng thừa hành của tổng thống. Nhiệm vụ của nhóm này là thông báo
đều đặn tình hình tiến bộ của Mỹ ở Việt Nam nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nhân
dân Mỹ. Vào giữa tháng 11 năm 1967, nhân ngày Cựu chiến binh Mỹ, Giôn-xơn đi
một loạt các bang trong nước nhằm thuyết phục các tầng lớp xã hội Mỹ tin rằng,
Mỹ đang thực sự đạt được các tiến bộ vững chắc ở Việt Nam. Đại sứ và Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn được triệu về Oa-sinh-tơn nhằm bênh vực cho
đường lối chiến tranh của Giôn-xơn. Phối hợp chặt chẽ với các hoạt động tuyên
truyền ở Mỹ, tại Sài Gòn, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ được lệnh tổ chức đều đặn các
buổi thuyết trình về thắng lợi của Mỹ và quân đồng minh. Bằng chiến dịch tuyên
truyền đó, chính quyền Mỹ đã phần nào hồi
sinh niềm hy vọng giành thắng lợi trong một bộ phận công chúng Mỹ, ngăn
chặn sự “han rỉ” trong thái độ ủng hộ chính quyền, ủng hộ chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên,
“cái giá” phải trả cho sự hồi sinh đó, như nhận xét của tác giả Đôn
O-bớc-đoi-phơ, “quả là đắt”. Bởi vì, chính phủ Mỹ phải đổi lấy sự ủng hộ của
dân chúng bằng “một lời hứa hẹn về tương lai”[12] để rồi không
bao giờ trở thành hiện thực!
Vào
tháng 12 năm 1967, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố phóng
thích 2 tù binh Mỹ để họ trở về đoàn tụ với gia đình nhân dịp lễ Nô-en 1967. Cử
chỉ này của Chính phủ VNDCCH khiến cho một số quan chức cao cấp trong chính phủ Mỹ
vội chủ quan nhận định: “Các nhà lãnh đạo Hà Nội đã từ bỏ hy vọng chiếm được
miền Nam
trong một tương lai gần”[13]! Điều này,
theo họ có nghĩa là: khả năng đàm phán trực tiếp với đại diện miền Bắc Việt Nam
đang hé mở và “Mỹ đang ở trong một giai đoạn Bàn Môn Điếm nào đó”! Tại buổi
chiêu đãi đoàn ngoại giao ở Hà Nội ngày 30 tháng 12 năm 1967, người ta vẫn còn
thấy Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh ngỏ ý rằng: Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa sẽ đi vào đàm phán với chính phủ Mỹ một khi phía Mỹ chấm dứt
ném bom miền Bắc Việt Nam[14]. Tín hiệu này
càng làm cho nhiều nhân vật chủ chốt trong chính quyền Giôn-xơn thêm hy vọng.
Và chính vì thế mà sức ép đòi ngừng ném bom miền Bắc để mở đường đi vào đàm
phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lập tức tăng lên mạnh mẽ ở trong chính
quyền Mỹ, trong dư luận Mỹ và trên thế giới.
Đồng
thời với thao tác nghi binh trên mặt trận ngoại giao, trên mặt trận quân sự, ta
đã bàn với bạn Lào mở chiến dịch Nậm Bạc, buộc đối phương phải phân tán lực lượng, đối phó không chỉ trên chiến trường miền Nam mà
cả trên chiến trường Lào, tạo điều kiện cho đòn tiến công đồng loạt đánh vào
các đô thị miền Nam Việt Nam.
Sau
một thời gian chuẩn bị, ngày 12 tháng 1 năm 1968, liên quân Lào – Việt nổ súng
mở màn chiến dịch, tiêu diệt đối phương ở khu vực Bắc Lào. Cùng lúc đó, tại miền Nam
Việt Nam, các sư đoàn, các trung đoàn chủ lực Quân giải phóng cùng các đơn vị
binh chủng bắt đầu rời căn cứ, hướng về các trung tâm dân cư và các đô thị, kể
cả Sài Gòn – Gia Định. Đồng thời, một số sư đoàn chủ lực miền Bắc đã tập kết
lực lượng xung quanh khu vực rừng núi Khe Sanh, hình thành thế bao vây, uy hiếp
căn cứ có tầm quan trọng chiến lược này của đối phương. Trước tình hình đó, ngày 13
tháng 1 năm 1968, Oét-mo-len buộc phải ra
lệnh hủy bỏ dự án mở cuộc phản công chiến lược lần thứ 3; triệt thoái các
đơn vị Mỹ đã triển khai đánh vào chiến khu C, chiến khu D ở miền Đông Nam Bộ,
lùi về giữ vùng quanh Sài Gòn – Gia Định[15]. Đồng thời, vì
có mối đe dọa ở phía Bắc, Mỹ cũng buộc phải hủy bỏ các cuộc hành quân mang mật
danh “York” ở các tỉnh phía Bắc; lệnh
cho sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ thôi không từ Tây Nguyên về miền Đông Nam
Bộ theo như dự định ban đầu, mà cùng với lữ đoàn bộ binh nhẹ 196 Mỹ chuyển ra
Thừa Thiên, tăng cường cho mặt trận phía Bắc.
Như
vậy, đang từ thế chuẩn bị phản công
chiến lược nhằm giành quyền chủ động chiến trường, lực lượng quân sự Mỹ ở miền
Nam Việt Nam buộc phải quay về phòng ngự bị động trên hai hướng chính là xung
quanh Sài Gòn và Trị - Thiên.
Giữa
lúc đó, đêm 20 tháng 1 năm 1968, lực lượng vũ trang ta bất ngờ nổ súng tiến
công tập đoàn cứ điểm Khe Sanh16, uy hiếp mạnh tuyến phòng thủ đường
9 của đối phương, chiến dịch Khe Sanh nổ ra đã phá
tan những cố gắng của chính quyền Giôn-xơn trong việc thuyết phục công chúng Mỹ
tin rằng với Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam đã thấy “ánh sáng cuối đường hầm”.
Download toàn văn bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
[*]
Trích cuốn: Hồ Khang: Tết Mậu Thân – bước
ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân,
H, 1995.
[1] Số liệu dẫn trong
tài liệu số 790 tại kho K.4 Bộ Quốc phòng.
[2] Cuối năm 1964 đầu
năm 1965, Trung ương Cục miền nam hoạch định kế hoạch đón thời cơ, thực hiện Tổng
công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định. Kế hoạch tuyệt mật này
mang tên “Kế hoạch X”, lấy Sài Gòn –
Gia Định làm địa bàn trọng điểm thực hiện Kế hoạch. Tuy nhiên sau đó, vì Mỹ ồ
ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam nên việc xúc tiến thực hiện kế hoạch bị
hoãn lại.
[3] Được giao nhiệm vụ
tổ chức đánh Tòa Đài sứ Mỹ vào giờ chót (ngày 25 tháng 1 năm 1968), trong
khoảng thời gian ngắn, Ba Đen đã khẩn trương “gom nhặt” từng người trong đội
bảo đảm, thành lập Đội biệt động 11 gồm 17 cán bộ, chiến sĩ để thực hiện nhiệm
vụ này.
[4] Theo kế hoạch, sau
khi đánh chiếm, các đội biệt động ở các mục tiêu sẽ được tiếp ứng như sau:
-Bộ
Tổng tham mưu chính quyền Sài Gòn: 2 tiểu đoàn mũi nhọn và 5.000 thanh niên,
sinh viên.
-Biệt
khu Thủ đô: 1
tiểu đoàn mũi nhọn và 1.000 thanh niên, sinh viên.
-Khám
Chí Hòa: 1
tiểu đoàn mũi nhọn và 1.000 thanh niên, sinh viên.
-Tổng
Nha cảnh sát: 2
tiểu đoàn mũi nhọn và 1.000 thanh niên, sinh viên.
-Dinh
Độc Lập: 1
tiểu đoàn mũi nhọn và 200 thanh niên, sinh viên.
-Đài
phát thanh: 1
tiểu đoàn mũi nhọn và 200 thanh niên, sinh viên.
-Bộ Tư
lệnh hải quân: 1
tiểu đoàn mũi nhọn và 200 thanh niên, sinh viên.
[5] Theo số liệu của Ban
lịch sử Đảng Thành phố Hồ Chí Minh, đến cuối 1967, tổ chức và lực lượng đảng
viên ở một số quận như sau:
-
Quận
3, Quận 5, Quận 6 có 60 đảng viên, các xã đều có chi bộ Đảng.
-
Quận
2, Quận 4 có 14 chi bộ Đảng.
-
Quận
7, Quận 8 có 18 chi bộ.
Quận Nhà Bè có 15 đảng viên.
[6] Bấy giờ, do Trần Văn
Quang – Bí thư Khu ủy kiêm Tư lệnh Quân khu, phụ trách.
[7] Dẫn theo Nây Si-hân:
Lời nói dối choáng lộn, T2, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr.392.
[8] Cuộc Tổng công kích – tổng khởi nghĩa của Việt cộng Mậu thân 1968, Bộ
Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tháng 8 năm 1968, tr.358, 359.
[9] Để giữ bí mật, chủ
trương và kế hoạch tác chiến thật chỉ
được phổ biến cho các chiến trường trực tiếp bằng miệng – thông qua phái viên
của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam hoặc cán bộ giữ cương vị chủ
chốt ở chiến trường phải ra Hà Nội nhận lệnh, chứ không hề có văn bản.
[10] Cũng tại cuốn sách
này, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhận thấy: “Kế hoạch Tổng công
kích – tổng khởi nghĩa còn dự liệu tung ra một tin đồn là Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam được sự thỏa thuận của Hoa Kỳ chỉ đánh vào các đơn vị và cơ cấu
chỉ huy của Việt Nam cộng hòa. Sự thật, trong cuộc tổng công kích này, quân
địch đã không đánh vào bất cứ một cơ sở Hoa Kỳ nào. Như vậy, tin đồn của Việt
cộng được phóng ra đã dựa vào một vài yếu tố cụ thể là vào trước Tết, sau lời
tuyên bố của Ngoại trưởng Bắc Việt Nguyễn Duy Trinh ngỏ ý mở hội đàm, một vài
nhân vật của Mặt trận Giải phóng có giao dịch tiếp xúc với tòa Đại sứ Hoa Kỳ
tại Sài Gòn về vấn đề này. Một người trong các nhân vật này bị Tổng nha cảnh
sát quốc gia bắt và Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan – Tổng giám đốc cảnh sát quốc
gia, ra ý phản đối việc Hoa Kỳ xen lẫn vào nội bộ của Việt Nam và vì một áp lực
nào đó có lẽ là tòa Đại sứ Hoa Kỳ can thiệp đòi tha nhân vật nói trên khiến ông
xin từ chức nhưng Hội đồng nội các bác đơn, không chấp thuận. Cũng tin đồn này
cho rằng vì Việt Nam Cộng hòa có một thái độ cứng rắn trong vấn đề liên hiệp
với Mặt trận Giải phóng miền Nam trái với ý Hoa Kỳ nên người Mỹ để mặc cho Việt
cộng đánh vào các cơ sở và lực lượng của Việt Nam Cộng hòa để xem phản ứng của
quân đội đạt được đến mức nào và cũng là một cơ hội để Hoa Kỳ xem khả năng tấn
kích của Việt cộng thực hư ra sao hầu đánh giá việc mua bán trong việc thương
thuyết” (Sđd tr.59-60).
[11] Đin A-che-sơn (Dean
Acheson): Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ từ năm 1949 đến 1953 trong chính quyền
Tổng thống Mỹ Tru-man, sau này là một thành viên có ảnh hưởng trong nhóm cố vấn
về chính sách đối ngoại Mỹ cho đến khi qua đời vào năm 1969; là cố vấn cho Tổng
thống Mỹ Giôn-xơn về vấn đề Việt Nam trong Nhóm
những nhà thông thái từ năm 1965 đến năm 1968.
[12] Đôn O-bớc-đoi-phơ: Tết, Doubeday Company, New York, 1971,
Nxb. Tổng hợp An Giang trích dịch, 1988, tr.72.
[13] Dẫn theo Nây Si-han:
Lời nói dối choáng lộn, Sđd, T2,
tr.390.
[14] Trước đó, phía
VNDCCH chưa bao giờ công khai tuyên bố sẽ
đi vào đàm phán, mà chỉ mới hé mở khả năng “có thể nói chuyện với Mỹ” sau khi
Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc. Tuyên bố trên đây của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn
Duy Trinh là đòn tiến công ngoại giao, ngoài mục đích tăng cường sức ép và
khoét sâu thêm mâu thuẫn trong nội bộ địch, còn có tác dụng che giấu ý đồ trước
khi mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968.
[15] Theo hồi ký Tường trình của một quân nhân thì các
đơn vị chiến đấu Mỹ sau khi lui quân về đã được bố trí ở “vùng chu vi Sài Gòn
hoặc dọc các hành lang đi từ các khu an toàn ở biên giới tới Thủ đô”.
16 Khe Sanh, một vị trí có tầm
quan trọng chiến lược ở miền núi phía Tây Quảng Trị, nằm trên cao nguyên mỗi bề
gần 10km. Đây là khu vực phía Tây phòng tuyến Mắc-na-ma-ra mà địch phòng thủ
rất mạnh nhằm ngăn chặn sự chi viện của
miền Bắc cho miền Nam, là bình phong chắn giữ cho khu vực phía đông đường
9, bảo vệ vùng dân cư đồng bằng ven biển thuộc tỉnh Quảng Trị. Dưới con mắt của
các tướng lĩnh Mỹ, Khe Sanh là một căn cứ tuần tra để ngăn chặn chủ lực miền
Bắc thâm nhập từ Lào sang theo đường số 9; là một căn cứ cho các hoạt động của
lực lượng đặc biệt Mỹ và chính quyền Sài Gòn nhằm đánh phá các căn cứ của ta
trên đất Lào; là sân bay phục vụ cho việc trinh sát đường không tuyến vận tải
chiến lược Trường Sơn; “là cái mỏ neo ở phía Tây cho hệ thống phòng thủ phía
Nam khu phi quân sự; và là một bàn đạp cho các cuộc hành quân trên bộ để cắt
đứt đường mòn Hồ Chí Minh. Theo Oét-mo-len, bỏ Khe Sanh tức là đã bỏ mất tất cả
lợi thế đó, “đồng thời chấp nhận cái tất yếu là đưa chiến tranh vào vùng dân cư
ven đô thị”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!