Sau 10 năm (1954-1964) thế chân Pháp
nhảy vào miền Nam Việt Nam và sau 4 năm (1961-1964) tiến hành chiến lược "chiến tranh đặc biệt", mặc dù đã bỏ
ra nhiều tiền của và công sức, thi hành nhiều thủ đoạn và biện pháp, nhưng Mỹ
vẫn không dập tắt được phong trào cách mạng miền
Nam. Đến giữa năm 1965, mặc dù đã được đẩy lên tới đỉnh cao; vượt quá
mức lý thuyết và dự tính ban đầu, nhưng chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ ở miền Nam Việt Nam vẫn có nguy
cơ bị quân và dân miền Nam đánh bại hoàn toàn. Tình hình đó đặt Mỹ đứng trước
sự lựa chọn gay cấn:
1. Hoặc đơn phương rút khỏi miền Nam Việt Nam, từ bỏ các mục tiêu chiến lược
đã định trong cuộc chiến tranh này;
2. Hoặc phải thay đổi chiến lược,
đưa quân chiến đấu trên bộ của Mỹ vào, tiếp tục theo đuổi các mục tiêu chiến
lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Ngược dòng thời gian, người ta thấy
được rằng: sau chiến tranh thế giới lần thứ
hai, đặc biệt là từ sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa ra đời (1949) và sau khi cuộc chiến tranh Triều Tiên
(1950-1953) kết thúc, vấn đề Việt Nam
ngày càng ám ảnh giới lãnh đạo cao cấp Mỹ. Bởi lẽ, là một cường quốc đang theo
đuổi chiến lược thống trị toàn cầu, phía Mỹ quan niệm rằng: "Việc để mất
bất cứ một nước nào ở Đông Nam Á vì hành động xâm lược của Cộng sản sẽ có một
hậu quả tâm lý, chính trị và kinh tế nghiêm trọng. Trong trường hợp thiếu sự
phản ứng có hiệu quả và kịp thời, việc
mất bất cứ một nước riêng lẻ nào đó chắc
chắn sẽ dẫn tới việc các nước còn lại trong nhóm này quy phục một cách tương
đối nhanh chóng hoặc đi theo chủ nghĩa cộng sản"[1].
Trong mắt giới lãnh đạo nước Mỹ, "ách thống trị của Cộng sản, dù với biện
pháp gì... trước mắt sẽ gây nguy hại nghiêm trọng và về lâu dài nguy hại một cách nguy kịch đến lợi ích an
ninh quốc gia của Mỹ"[2]
Trong khi đó, Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và liền sau đó là cuộc kháng chiến
chống Pháp của nhân dân Việt Nam, theo cách nhìn của Mỹ, là một phong trào cách
mạng có khuynh hướng Cộng sản; đang uy hiếp lợi ích của Mỹ ở khu vực Đông Nam
châu Á. Nói cách khác, vấn đề Việt Nam từ
sau năm 1945 và nhất là trước năm 1954, đã chiếm giữ một vai trò ngày càng lớn
trong chiến lược toàn cầu của Mỹ.
Vì lẽ đó, từ tháng 7 năm 1954 trở về
trước, chính sách của Mỹ là tăng cường viện trợ quân sự cho Pháp trong cuộc
chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Khoản viện trợ đó lớn đến mức chiếm tới
78% toàn bộ chiến phí của Pháp vào năm 1954 ở Đông Dương.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam ở
Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và Đông
Dương được ký kết sau đó (7.1954), trong quan niệm của giới lãnh đạo nước Mỹ,
"là một thảm họa; đã hoàn thành bước tiến quan trọng của chủ nghĩa cộng
sản, có thể dẫn tới việc mất cả Đông Nam Á"[3].
Do vậy, từ chỗ chỉ can
thiệp thông qua viện trợ quân sự cho Pháp, sau
năm 1954, Mỹ chuyển sang đóng vai trò xâm lược, chính thức đặt chân vào miền Nam Việt Nam,
trực tiếp nắm lấy miền Nam Việt Nam.
Từ năm 1955 đến năm 1960, Mỹ ra sức xây dựng chính quyền và quân đội Sài
Gòn, sử dụng bộ máy chính quyền và lực lượng quân sự này để đàn áp đẫm
máu phong trào cách mạng miền Nam[4],
biến chính quyền và quân đội Sài Gòn thành công
cụ thực hiện kế hoạch của Mỹ. Thế nhưng, vượt qua tổn thất và đau thương,
cách mạng miền Nam từng bước hồi phục. Trên cơ sở bảo tồn, tích lũy và từng
bước phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, vào năm 1959 và năm
1960, nhân dân miền Nam đã vùng dậy "Đồng khởi" đập tan ách thống trị
cơ sở của chính quyền Sài Gòn ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn, thiết lập chính
quyền cách mạng; giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Ai-xen-hao, làm thất bại
một bước chiến lược chiến tranh của Mỹ.
Trước tình hình đó, từ năm 1961 đến năm 1964, Mỹ chuyển sang
thực hiện chiến lược "chiến tranh
đặc biệt", một loại hình chiến
tranh hạn chế mà Mỹ cho là thích hợp nhất hòng đè bẹp chiến tranh cách mạng
miền Nam. Từ đây, Việt Nam - điểm chủ chốt trong chiến lược của Mỹ ở Đông Nam
Á, đã được chọn làm nơi thí điểm đầu tiên cho một loại hình chiến tranh - mà
theo chủ quan của Mỹ, "sau này có
thể đem áp dụng vào những nơi khác trong hoàn cảnh thích hợp ở châu Mỹ Latinh,
Trung Đông và có thể ở cả Trung Âu nữa"[5].
Để thực hiện chiến lược chiến tranh
đó, Mỹ đã tăng cường cố vấn và lực lượng yểm trợ chiến đấu Mỹ vào miền Nam, tăng
viện trợ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn, mở rộng và tăng cường quân đội
Sài Gòn (trên các mặt: số lượng, trang bị, huấn luyện, cơ cấu chỉ huy... nhằm
thích ứng với nhiệm vụ đánh bại chiến tranh du kích), đẩy mạnh chương trình
bình định (lấy việc lập ấp chiến lược làm trọng tâm), ra sức củng cố hệ thống
chính quyền cơ sở của chế độ Sài Gòn, tiến hành các hoạt động chống phá miền
Bắc Việt Nam từ bí mật đến công khai...
Đồng thời với việc triển khai mạnh
mẽ các biện pháp trên đây, Mỹ bắt đầu
đẩy quân đội Sài Gòn ra trận. Với sự yểm trợ về hỏa lực và sự dìu dắt của cố
vấn Mỹ, quân đội Sài Gòn đã mở hàng ngàn cuộc hành quân nhằm tiêu diệt lực
lượng vũ trang Cách mạng miền Nam, hỗ trợ cho việc gom dân, lập "ấp chiến
lược"... Đầu năm 1965, cố gắng của Mỹ trong chiến lược "chiến tranh
đặc biệt" đã tới đỉnh cao[6].
Dù vậy, ba chỗ dựa chủ yếu của Mỹ trong cuộc chiến tranh này là: quân đội và
chính quyền Sài Gòn; hệ thống "ấp chiến lược"; vùng đô thị vẫn có
nguy cơ bị sụp đổ trước sức tiến công mạnh mẽ của cách mạng miền Nam.
Thế là, sau hơn chục năm cố gắng một
cách có ý thức rõ ràng, một lần nữa, lợi
ích chiến lược toàn cầu của Mỹ ở Đông Nam Á vẫn bị đe dọa.
Đây cũng là lúc cuộc chiến tranh
nhân dân ở miền Nam Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trên cả ba vùng
chiến lược (rừng núi; nông thôn đồng bằng; đô thị). Và miền Bắc, sau gần 10 năm
xây dựng trong hòa bình, đã trở nên vững mạnh và trở thành căn cứ địa vững chắc
cho cách mạng cả nước. Về phía Mỹ, nền kinh tế trong nước đã trải qua 5 năm
phát triển khá cân đối (1960-1965), chi phí cho cuộc "chiến tranh đặc
biệt" ở miền Nam Việt Nam chưa nhiều,
nội bộ chính quyền Mỹ ổn định, giữa chính quyền và Quốc hội Mỹ còn thống
nhất trong vấn đề chiến tranh Việt Nam - một cuộc chiến tranh mà đối với phần
lớn nhân dân Mỹ vẫn còn xa vời; chưa tác động đáng kể tới cuộc sống của họ.
Trong bối cảnh đó, phía Mỹ quyết
định thay đổi chiến lược chiến tranh để
giành thắng lợi quyết định ở miền Nam Việt Nam: chuyển từ chiến lược "chiến tranh đặc biệt" sang chiến
lược "chiến tranh cục bộ".
Mục tiêu bao trùm của Mỹ trong cuộc chiến tranh này là triển khai lực lượng lớn từ Mỹ sang, dùng
"phản công" tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng miền Nam, leo thang
đánh phá miền Bắc, buộc chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải thương lượng theo điều kiện của Mỹ. Tuy nhiên, để tránh gây ảnh hưởng
xấu đến thế bố trí chiến lược toàn cầu của Mỹ; tránh làm ảnh hưởng xấu tới tình
hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước; tránh lôi kéo các nước lớn (Liên
Xô, Trung Quốc) trực tiếp tham chiến..., chính quyền Giôn-xơn chủ trương đưa
quân Mỹ vào nhanh rút ra nhanh, nghĩa là muốn giành thắng lợi quyết định trong một thời gian ngắn.
Do vậy, tháng 7 năm 1965, Tổng thống
Giôn-xơn đã chấp nhận và chính thức thông qua kế hoạch chiến lược "Tìm và diệt" của tướng Oét-mo-len -
Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (M.A.C.V). Theo đó, Mỹ sẽ
hoàn tất các mục tiêu chiến lược của cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam Việt
Nam trong khoảng thời gian từ hai năm đến
hai năm sáu tháng. Kế hoạch này được dự định thực hiện qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1, từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1965, đưa nhanh quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào miền Nam,
ngăn chặn chiều hướng thua của quân đội Sài Gòn, hoàn thành việc triển khai lực
lượng, chuẩn bị cho các hoạt động giai đoạn 2.
-
Giai đoạn 2, từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1966, mở
cuộc phản công chiến lược "Tìm và
diệt" ở những vùng ưu tiên để tiêu diệt chủ lực đối phương, phá chiến
tranh du kích, giành lại quyền chủ động
chiến trường từ tay đối phương, tổ chức lại các hoạt động "bình định
nông thôn".
-
Giai đoạn 3, từ tháng 7 năm 1966 đến tháng 6 năm
1967 (hoặc tháng 12 năm 1967), mở tiếp các cuộc tiến công "Tìm và diệt" những đơn vị chủ lực Quân giải phóng còn
lại, phá căn cứ kháng chiến và tiêu diệt
cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam, hoàn tất chương trình "Bình
định nông thôn" rút quân Mỹ về nước.
Theo Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, "ýnghĩa cơ bản nêu rõ trong
chiến lược "Tìm và diệt" là
muốn đưa cuộc chiến tranh đến tận xứ sở của kẻ đối phương, làm cho kẻ đối
phương không thể tự do đi lại ở bất cứ nơi nào trên đất nước... và giáng cho kẻ
đối phương những đòn thật nặng nề"[7].
Từ mùa hè 1965, các đơn vị chiến đấu
Mỹ cùng một số đơn vị quân Nam Triều Tiên,
Ốt-xtrây-li-a, Niu-di-lân... bắt đầu ồ ạt đổ vào miền Nam. Ngoài số quân
trực tiếp chiến đấu không ngừng tăng lên trên chiến trường, toàn bộ lực lượng
thuộc Bộ Tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương cũng được huy động vào việc yểm trợ tác
chiến, bảo đảm hậu cần cho cánh quân trên bộ ở Nam Việt Nam. Chiến tranh phá hoại
miền Bắc do Bộ Tư lệnh không quân Thái Bình Dương phụ trách. Bộ Tư lệnh Thái
Bình Dương còn thường xuyên duy trì một lực lượng lục quân sẵn sàng chi viện
cho quân Mỹ ở miền Nam hoặc đổ bộ lên miền Bắc Việt Nam, nếu cần.
Mùa mưa 1965, quân Mỹ gấp rút triển
khai chiếm lĩnh những địa bàn chiến lược trọng yếu. Lực lượng đảm bảo hậu cần
khổng lồ của quân đội Mỹ khẩn trương xây dựng các căn cứ quân sự liên hợp, các
căn cứ xuất phát hành quân, các căn cứ hậu cần ở những khu vực then chốt. Các
tuyến giao thông chiến lược, hệ thống cảng biển, sân bay, bãi đáp trực thăng...
cũng được khẩn trương mở rộng, xây dựng và hiện đại hóa.
Hỗ trợ cho quá trình triển khai lực
lượng, thiết lập hệ thống căn cứ quân sự và hậu cần, một số đơn vị Mỹ và quân
đội Sài Gòn mở hàng ngàn cuộc hành quân lớn, nhỏ; tập trung vào vùng xung quanh
các căn cứ Mỹ. Ngoài ra, bom đạn, chất độc hóa học được sử dụng ở mức độ ngày
càng nhiều đánh vào vùng giải phóng, vùng tranh chấp; đánh xuống các tuyến hành
lang, các căn cứ kháng chiến của lực lượng cách mạng miền Nam. Lần đầu tiên, máy bay ném bom chiến lược B.52 được đưa
ra sử dụng trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Nhằm tạo lập sự ổn định về chính
trị, làm cơ sở cho cuộc chiến tranh xâm lược, ngày 18 tháng 6 năm 1965, Mỹ bật
đèn xanh cho hai tướng trẻ Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ đảo chính lật đổ
Nguyễn Khánh, thành lập chính phủ quân sự tại Sài Gòn.
Trên miền Bắc, cuộc chiến tranh
không quân của Mỹ từng bước được mở rộng về
quy mô, gia tăng về cường độ và gắn bó chặt chẽ với nhịp độ chiến tranh trên
bộ ở miền Nam.
Đối
với hai nước láng giềng của Việt Nam,
Mỹ đẩy mạnh "chiến tranh đặc biệt" ở Lào, sử dụng sức ép quân sự và
ngoại giao hòng buộc chính phủ Vương quốc Campuchia từ bỏ thái độ trung lập.
Trên trường quốc tế, Mỹ triệt để lợi dụng mâu thuẫn Xô - Trung và sự bất đồng trong phong trào cộng sản quốc tế để
cô lập Việt Nam, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược. Ở trong nước, chính quyền Mỹ thi hành các biện pháp nhằm bưng bít tin tức về cuộc chiến tranh ở Việt
Nam, che giấu các hoạt động chiến tranh của Mỹ trên chiến trường. Bằng cách
đó, chính phủ Mỹ hy vọng duy trì được sự đồng tình của Quốc hội và tranh thủ
được ủng hộ của nhân dân Mỹ đối với chính sách "leo thang" chiến
tranh của chính quyền Mỹ ở Việt Nam.
Trước việc Mỹ thay đổi chiến lược -
đưa quân vào trực tiếp tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam, quân và dân hai
miền Nam, Bắc Việt Nam không nao núng ý chí, quyết tâm, bình tĩnh, tự tin bước
vào cuộc chiến đấu mới.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng
và Quân ủy Trung ương, khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược" đã trở thành mục tiêu, lẽ sống của nhân dân
miền Bắc. Vì thế, ngay sau đó, được miền Bắc chi viện, khối chủ lực cơ động của
Quân giải phóng miền Nam đã phát triển từ 10 trung đoàn (1964) lên tới 5 sư
đoàn, 11 trung đoàn bộ binh và nhiều trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật
với vũ khí, trang bị tương đối hiện đại. Bên cạnh khối chủ lực cơ động, bộ đội
địa phương và dân quân du kích cũng đã nhanh chóng được mở rộng, tăng cường:
mỗi tỉnh có 1 đến 2 tiểu đoàn và hàng chục đại đội bộ đội chủ lực cùng hàng
trăm trung đội, tiểu đội du kích... Như vậy là bắt đầu từ đây, ở miền Nam, lực
lượng vũ trang đã củng cố vững chắc hơn nữa thế
trận liên hoàn trên các địa bàn chiến lược: khối chủ lực đứng chân vững
chắc ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng Khu 5; bộ đội địa phương và dân
quân du kích hoạt động xen kẽ với đối phương, hỗ trợ trực tiếp cho phong trào
chống phá "bình định" và đấu tranh chính trị của nhân dân tại chỗ. Xung quanh các căn cứ quân sự; làng xã
chiến đấu được liên kết lại, hình thành các
"vành đai" áp sát, bao vây, trực tiếp uy hiếp quân Mỹ ngay tại
vị trí xuất phát hành quân. Ở vùng ven đô, dân quân, du kích, đặc công, các đội
pháo cối chuyên trách được tăng cường. Trong các đô thị, cơ sở chính trị cũng được chú ý phát triển.
Dựa
trên thế trận đã được chủ động hình thành đó, khi quân Mỹ ồ ạt kéo vào miền
Nam, lực lượng vũ trang Quân giải phóng chẳng những không bị động lùi về phòng
ngự chống đỡ mà ngược lại, đã chủ động
tiến công một số đơn vị quân Mỹ nhằm tìm hiểu khả năng thực tế quân Mỹ để tìm
ra cách đánh phù hợp. Vì vậy, ngay trong năm 1965, chiến thắng của Quân
giải phóng miền Nam đã làm nức lòng cả nước. Đó là các trận đánh đã đi vào lịch
sử: Trận Núi Thành (3.1965), một đại đội bộ đội địa phương Quân giải phóng tập
kích vào một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ; trận Vạn Tường (8.1965), một trung
đoàn chủ lực Quân giải phóng đã đương đầu thắng lợi với cuộc tiến công hiệp
đồng binh chủng của một lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ với số quân lớn hơn ngay
tại vùng đồng bằng ven biển; tiếp đó, Quân giải phóng đã chủ động mở chiến dịch
Plây Me (11.1965) trên miền rừng núi Tây Nguyên, tiêu diệt gọn một tiểu đoàn
của sư đoàn kỵ binh không vận số 1 của Mỹ. Như hòa nhịp với chiến trường Khu 5,
ở miền Đông Nam Bộ, chủ lực Quân giải phóng đã tập kích vào lữ đoàn dù Mỹ 173
tại Đất Cuốc và tiến công vào lữ đoàn 1 thuộc sư đoàn bộ binh số 1 - sư đoàn
được mệnh danh là "Anh cả đỏ" tại Bầu Bàng (11.1965).
Từ thực tiễn chống Mỹ, cứu nước trên
khắp cả hai miền Nam, Bắc trên đây và trên cơ sở phân tích toàn bộ tình hình
trong nước và trên thế giới có liên quan tới cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và
Mỹ, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12, khóa III (12.1965) đã đi
tới kết luận: "Ngày nay, mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn
quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và đối phương vẫn không thay đổi
lớn. Tuy cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt nhưng nhân dân ta đã có cơ sở
chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực
lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của đối phương"[8]. Hội nghị hạ quyết tâm chiến lược:
"Động viên lực lượng của cả nước, kiên
quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống
nào"[9]. Cũng tại Hội nghị này, Trung ương Đảng
LĐVN đã vạch rõ phương châm chiến lược chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước phải là "đánh lâu dài, dựa
vào sức mình là chính"[10]3.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ thể lúc đó, Hội nghị cũng đã lường trước được khả
năng nhằm chớp thời cơ và lưu ý các cấp chiến lược rằng: Trên cơ sở quán triệt
và vận dụng phương châm đánh lâu dài mà Nghị quyết đã chỉ ra, "phải cố gắng cao độ, tập trung lực lượng của
cả hai miền để tranh thủ thời cơ,
giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường
miền Nam"[11].
Tinh thần đó được thể hiện cụ thể thành những nội dung chính sau đây:
1. Tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận
quan trọng quân đội Mỹ, làm cho Mỹ bị tổn thất nặng, không thể thực hiện được
các nhiệm vụ quân sự và chính trị.
2. Tiêu diệt và làm tan rã đại bộ
phận quân đội Sài Gòn tới mức nó không còn là một lực lượng mà Mỹ có thể dựa
vào đó để tiếp tục chiến tranh. Và, khi Mỹ buộc phải chuyển sang giải pháp
chính trị, thì thế và lực của chế độ Sài Gòn sẽ không đủ sức để duy trì và giữ
vững chế độ.
3. Trên cơ sở đó, đè bẹp ý chí xâm lược của Mỹ, thực hiện
mục tiêu về độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước
nhà.
Như lịch sử đã
chứng minh, tinh thần của Nghị quyết 12 đã
có tác dụng chỉ đạo kịp thời, từng bước làm thất bại các biện pháp chiến lược chiến tranh cục bộ Mỹ. Lúc này, trên chiến
trường, về phía Mỹ, đến cuối năm 1965, hơn 20 vạn quân Mỹ và quân đồng minh
(trong đó có 184.134 lính Mỹ) đã triển khai xong ở các địa bàn chiến lược. Đầu
năm 1966, Mỹ lại đưa thêm hai trung đoàn, lữ đoàn, một sở chỉ huy sư đoàn cùng
Tập đoàn không quân số 7 vào miền Nam[12].
Như vậy là toàn bộ quân Mỹ, quân đội Sài Gòn và quân đồng minh đã hợp thành đội
quân 72 vạn lính. Với lực lượng đông đảo ấy, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ quyết định
mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, mùa khô 1965-1966, nhằm "tìm
diệt" chủ lực Quân giải phóng, giành
lại quyền chủ động trên chiến trường, giải tỏa áp lực quanh các đô thị và
khai thông những tuyến đường giao thông chiến lược, "bình định" các
vùng nông thôn quan trọng, ổn định và tăng cường hiệu lực của chính quyền, quân
đội Sài Gòn.
Thực hiện mục tiêu trên, Bộ Chỉ huy
quân sự của Tướng Oét-mo-len quyết định dùng toàn bộ "vốn liếng" quân
sự nói trên để tập trung đánh vào năm
hướng ở hai chiến trường trọng điểm là Đông Nam Bộ và Khu 5 (bao gồm Tây
Bắc Sài Gòn, Đông Sài Gòn, Nam tỉnh Phú Yên, Bắc tỉnh Bình Định và Nam Quảng
Ngãi). Như vậy, cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 của Mỹ ở miền Nam
đã diễn ra trên một quy mô rộng lớn, bằng một lực lượng đông nhằm các mục tiêu
đầy tham vọng. Đồng thời, trên miền Bắc Việt Nam, không quân, hải quân Mỹ đã
leo thang đánh phá ác liệt. Tháng 2 năm 1966, đối phương tập trung oanh tạc các tuyến đường từ Thanh Hóa trở vào. Từ
tháng 3 năm 1966, không quân chiến thuật Mỹ đánh vào một loạt mục tiêu
giao thông và các khu công nghiệp Hòn Gai, Cẩm Phả, Việt Trì. Thậm chí Mỹ còn
cho máy bay B.52 ném bom xuống khu vực đèo Mụ Giạ ở Tây Quảng Bình...
Với
một binh lực hùng hậu, sử dụng các thành tựu khoa học quân sự tiên tiến, giới
lãnh đạo Oa-sinh-tơn và Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn tin chắc rằng sẽ
nhanh chóng đè bẹp được đối phương! Thế nhưng, dựa vào thế trận chiến tranh
nhân dân được xây dựng và phát triển trong những năm đánh thắng chiến lược
"chiến tranh đặc biệt", kết hợp chặt chẽ các hình thức tác chiến của
bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích..., với một tầm nhìn xa
và ý thức chủ động đón đối phương để đánh, lực lượng vũ trang Quân giải phóng
đã liên tục chặn đánh, kìm chân, phản công và tiến công để bẻ gãy nhiều cuộc
hành quân "tìm diệt" của quân Mỹ và chư hầu. Ở vòng ngoài là như vậy.
Còn ở vòng trong, các đơn vị đặc công, biệt động, các đội pháo cối chuyên
trách, lực lượng du kích "vành đai diệt Mỹ" đã tổ chức các trận tập
kích, phục kích, đánh sâu, đánh hiểm vào hậu cứ, hậu phương, căn cứ xuất phát
hành quân của đối phương. Ngay cả ở các khu vực mà đối phương tập trung đánh
phá ác liệt hơn như Sài Gòn - Gia Định, lực lượng vũ trang vẫn bám trụ kiên
cường. Nhân lúc quân đối phương bị gìm chân, phân tán trên nhiều hướng, các đơn
vị chủ lực Quân giải phóng đã chủ động mở các cuộc tiến công đánh thiệt hại
nặng sư đoàn 1, sư đoàn 25 bộ binh và lữ dù 173 của Mỹ ở Củ Chi, Bến Cát, Nhà
Đỏ - Bông Trang, Võ Xu, Bình Tuy, dốc Bà Nghĩa, tỉnh lộ 16, núi Lá... Chủ lực
Quân khu 5 đánh đối phương ở Tây Sơn Tịnh (Bắc Quảng Ngãi), đánh thiệt hại nặng
lính thủy đánh bộ Mỹ ở Đông Giáp...
Như vậy là gọng kìm "tìm
diệt" mà Mỹ thực thi đã bị bẻ gãy. Còn mục tiêu "bình định" nông
thôn do quân đội Sài Gòn đảm nhiệm trong đợt phản công lần thứ nhất này, xem ra
cũng không sáng sủa gì: kết hợp chặt chẽ phương châm đấu tranh chính trị với
đấu tranh vũ trang, đánh đối phương bằng "ba mũi giáp công" quân sự,
chính trị, binh vận, quân và dân miền Nam đã thu được nhiều kết quả. Cụ thể là
đã phá vỡ kế hoạch bình định 900 ấp, củng cố 19.000 ấp trong năm 1966 do
tổng thống Mỹ Giôn-xơn và Nguyễn Văn Thiệu nhất trí tại Hô-nô-lu-lu vạch ra từ
ngày 20 tháng 4 năm 1965. Ở Khu 5, Trị - Thiên, Tây Nguyên, hơn 2 triệu
đồng bào giành được quyền làm chủ. Vùng giải phóng ở Bình Định, Quảng Ngãi,
Quảng Nam, Quảng Đà, Gia Lai, Công Tum, Đắc Lắc, Quảng Trị, Thừa Thiên được giữ
vững. Căn cứ du kích và hệ thống làng xã chiến đấu ngày càng được mở rộng ở
nhiều vùng nông thôn, rừng núi...
Như vậy là, đến giữa năm 1966, không
"tìm diệt" được các đơn vị chủ lực Quân giải phóng, không đạt được
chỉ tiêu "bình định" các vùng trọng điểm nông thôn miền Nam, Bộ Chỉ
huy quân sự Mỹ (M.A.C.V) buộc phải kết
thúc cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất sớm hơn dự định[13].
Trong khi đó, mục tiêu ổn định chính quyền và quân đội Sài Gòn, khai thông các
tuyến giao thông chiến lược, giải tỏa áp lực quanh các thành phố, các căn cứ
quân sự Mỹ cũng không được thực hiện. Nhiều đô thị lớn của đối phương như Sài
Gòn - Gia Định, Đà Nẵng,... nhiều tuyến giao
thông như quốc lộ 1, đường 15 từ Vũng Tàu đi Biên Hòa... vẫn bị gây áp
lực. Đặc biệt là từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1966, nội bộ chính quyền và quân đội Sài Gòn bị chia rẽ sâu sắc - nhân
việc Hội đồng quân sự do Thiệu - Kỳ cầm đầu cách chức Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh
Quân đoàn 1. Chỉ 24 giờ sau khi Nguyễn Chánh Thi bị cách thức, sĩ quan và binh
lính ủng hộ Nguyễn Chánh Thi tại Huế, Đà Nẵng tuyên bố ly khai chính quyền Sài Gòn. Sinh viên, học sinh, tăng ni
phật tử... ở các thành phố miền Trung xuống
đường biểu tình với khẩu hiệu chống Mỹ - Thiệu... Giữa tháng 6 năm 1966,
Thiệu - Kỳ mới lập lại quyền kiểm soát ở Huế, Đà Nẵng. Dù vậy, qua sự kiện này,
uy thế, hiệu lực của chính quyền và quân đội Sài Gòn đã bị tổn thương, suy sút
nghiêm trọng.
Đầu tháng 5 năm 1966, trong báo cáo
gửi lên Tổng thống Mỹ Giôn-xơn, Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn C. Lốt-giơ cho rằng: Tình hình chung ở miền Nam là ảm đạm.
Theo ông, cố gắng quân sự của Mỹ những tháng đầu năm đã "không làm hao tổn
được Việt cộng, không tiêu diệt được đơn vị chính quy nào của Việt cộng, không
ngăn chặn được du kích phát triển"[14].
Tháng 6 năm 1966, phát hiện Quân giải phóng mở Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng
Trị, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ (M.A.C.V) vội điều sư đoàn 1 và sư đoàn 3 lính thủy
đánh bộ Mỹ cùng chiến đoàn tổng trù bị quân đội Sài Gòn ra ứng phó trên hướng
chiến lược này. Lực lượng đối phương, do vậy, càng bị căng kéo, dàn mỏng trên chiến trường, thế bố trí chiến lược của
đối phương ngày càng trở nên mất phương
hướng. Chính vì thế mà
"đến giữa năm 1966, tình hình đã trở nên rõ ràng là sức mạnh quân sự Mỹ
không thể nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam"[15].
Ở miền Bắc thì, mặc dù đã sử dụng một khối lượng lớn bom đạn, áp dụng nhiều thủ
đoạn đánh phá, và mặc dù đã chịu tổn thất nhiều máy bay và người lái[16]
nhưng chiến dịch "Sấm rền" của không quân Mỹ đã không đạt được kết quả như dự tính ban đầu. Trong một báo cáo
gửi lên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc-na-ma-ra, cơ quan tình báo Bộ Quốc phòng Mỹ
nhận định: "Ý kiến cho rằng phá hủy hoặc dọa phá hủy nền công nghiệp Bắc
Việt Nam thì sẽ buộc Hà Nội phải quỳ gối; nhìn lại, thì thấy đó là một nhận định sai lầm"[17].
Ngay cả mục tiêu ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam cũng
vậy, bởi vì: "Hệ thống vận tải Bắc Việt Nam rất thô sơ và xem ra rất dễ bị
đánh tan nhưng lại rất cơ động và có khả năng phục
vụ vượt xa mức yêu cầu"[18]
Vả chăng, theo cơ quan này, "chi viện cuộc chiến tranh ở Nam Việt
Nam không phải là một điều căng thẳng rất lớn đối với nền kinh tế Bắc Việt Nam. Các lực lượng Bắc Việt Nam và Việt cộng ở Nam
Việt Nam không phải là một đạo quân lớn. Họ không đánh nhau như các sư đoàn chính quy hoặc những đạo
quân lớn ra trận với xe tăng, máy bay, súng đại bác dã chiến; họ không cần tiếp tế bằng những đoàn xe vận tải,
tàu hỏa hoặc tàu thủy. Họ đánh rồi rút bộ, tự
túc ở địa phương và thường tránh
không giao chiến khi nguồn tiếp tế bị giảm sút"[19].
Mùa hè 1966, Hội nghị chuyên đề bí mật bao gồm một tập thể các nhà khoa học có
danh tiếng của Mỹ họp dưới sự đỡ đầu của Chính phủ Mỹ để nghiên cứu toàn bộ kết
quả cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam đã đi đến kết luận rằng:
"Tính đến tháng 7 năm 1966, các hoạt động ném bom của Mỹ ở Bắc Việt Nam đã
không có ảnh hưởng trực tiếp đáng kể nào
đến khả năng của Hà Nội trong việc tiến hành và hỗ trợ các hoạt động quân sự ở
Nam Việt Nam"[20].
Tình hình đó khiến cho Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc-na-ma-ra "phải suy nghĩ
lại vai trò của toàn bộ chiến dịch oanh tạc trong cố gắng của Mỹ. Ông rất đau
khổ biết rõ tình trạng bất lực của các lực lượng không quân trong việc ngăn
chặn các hoạt động thâm nhập vào Nam và
không thấy biểu hiện gì chứng tỏ oanh tạc có khả năng bẻ gãy ý chí của Hà Nội, làm cho dân chúng mất tinh
thần hoặc ép Bắc Việt Nam phải tới bàn hội nghị"[21].
Những cố gắng chiến tranh của Mỹ
trong mùa khô 1965-1966 không đạt được mục tiêu dự định là một bất ngờ lớn, một
thất bại có ý nghĩa chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Thất bại
đó khiến cho nhiều quan chức cấp cao trong
chính quyền Giôn-xơn từ hoài nghi đi tới chỗ nhận rõ: Sức mạnh quân sự Mỹ không thể nhanh chóng
kết thúc chiến tranh, giành phần thắng cho Mỹ như dự tính ban đầu. Tình
hình đó buộc Chính phủ Mỹ từ tháng 4 năm 1966 trở đi phải "triệu tập nhiều
cuộc họp để xem xét khả năng lựa chọn ở Việt Nam"[22]
như Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ xác định. Cuộc tranh luận diễn ra trong nội
bộ chính quyền từ mùa hè năm 1966 chủ yếu xoay quanh chiến lược quân sự của Mỹ
ở Việt Nam. Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ với Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân
sự Mỹ tại miền Nam Oét-mo-len liên tục gây sức ép đòi Giôn‑xơn chấp thuận các
đề nghị của họ nhằm đẩy mạnh hơn nữa cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam - bằng
cách tăng quân vào miền Nam, đánh phá với cường độ cao toàn bộ mục tiêu ở miền
Bắc, phong tỏa các cảng biển, cửa sông miền Bắc, và chuẩn bị phương án dùng bộ
binh đánh ra Nam Quân khu 4... Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Gioóc-dơ Bon, trợ lý Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ Mác-nâu-tơn, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc-na-ma-ra không
đồng ý quan điểm này bị phái quân sự phản đối gay gắt. Cuộc tranh luận đó đã
biểu lộ sự rạn nứt của khối đoàn kết
thống nhất trong nội bộ chính quyền Giôn-xơn - điều mà trước đó gần một năm
chưa xuất hiện bởi tất cả các thành viên trong Chính phủ Mỹ lúc bấy giờ đều tin tưởng sâu sắc rằng sức mạnh quân sự Mỹ sẽ nhanh chóng đè bẹp đối phương.
Dù sự rạn nứt đó chưa đến mức gay
gắt nhưng "từ nay trở đi, nhận định của giới quân sự Mỹ về việc nên tiến hành chiến tranh ra sao và
phải cần những gì" cho cuộc chiến này "đã thành vấn đề"[23].
Sau mùa khô 1965-1966, cả Quân giải
phóng và đối phương đều đã tranh thủ mùa mưa để chuẩn bị bước vào cuộc đọ sức
quyết liệt mới: mùa khô 1966-1967.
Phát huy thắng lợi vừa giành được,
quân và dân miền Nam tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tiến công quân sự và chống
phá bình định, củng cố và bổ sung thêm lực lượng, vũ khí, phương tiện chiến
tranh, thành lập thêm một số đơn vị, bố trí lại thế trận trên một số địa bàn...
Để căng kéo lực lượng cơ động chiến lược của Mỹ, hút đối phương ra những khu
vực mà Quân giải phóng có điều kiện tiêu diệt, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương
quyết định thành lập Quân khu Trị - Thiên (tháng 4 năm 1966), mở Mặt trận đường
9 - Bắc Quảng Trị (tháng 6 năm 1966). Mặt trận mới mở này bao gồm ba huyện Do
Linh, Cam Lộ, Hướng Hóa; phía bắc giáp Vĩnh Linh, Quảng Bình, phía tây giáp
Trung, Hạ Lào, phía đông giáp biển Đông và phía nam giáp Hải Lăng, sông Ba
Lòng, thị xã Quảng Trị. Đối với Quân giải phóng, đường 9 - Bắc Quảng Trị là cửa
ngõ tiến vào giải phóng miền Nam; còn với đối phương - là tuyến đầu ngăn chặn
chủ lực miền Bắc. Tại mặt trận này, Bộ Chỉ huy Quân giải phóng bố trí hai sư
đoàn bộ binh (324 và 325c) uy hiếp tuyến ngăn chặn địa bàn phía bắc của đối
phương, buộc Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ (M.A.C.V) phải tăng quân ra Trị - Thiên; nâng tổng số quân Mỹ và quân đội Sài Gòn có
mặt tại đây lên xấp xỉ 42.000 lính (có 16.750 lính Mỹ). Nhân lúc một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động của đối phương bị hút
ra Trị - Thiên, chủ lực và bộ đội địa phương mở chiến dịch Bình Long (Nam Bộ), Bắc Phú Yên (Khu 5) Bắc Công Tum, Tây Gia Lai (Tây
Nguyên)... khiến đối phương phải điều lực lượng chống đỡ.
Trên miền Bắc, đáp ứng yêu cầu tăng
cường sức mạnh quốc phòng, Hồ Chí Minh công bố lệnh Động viên cục bộ (tháng 7 năm 1966).
Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước
nêu cao quyết tâm kháng chiến chống Mỹ xâm lược - trong đó xác định: cho dù
"chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà
Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song, nhân dân
Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý
hơn độc lập tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước
ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn"[24].
Về phía đối phương, tháng 10 năm
1966, Giôn-xơn triệu tập Hội nghị khối quân sự Đông Nam Á, gọi tắt là S.E.A.T.O[25]
ở Ma-ni-la nhằm động viên các nước đồng minh châu Á tham gia mạnh mẽ hơn nữa vào chiến tranh Việt Nam.
Tháng 11
năm 1966, Bộ Quốc phòng Mỹ quyết định tăng thêm quân vào miền Nam; đạt tới mức
469.000 quân vào giữa năm 1968. Không quân Mỹ được lệnh tăng cường đánh phá vào
một loạt các mục tiêu kinh tế, quân sự trên miền Bắc.
Mùa khô 1966-1967, Mỹ tung vào cuộc phản
công chiến lược lần thứ hai một lực lượng lớn bao gồm 20 sư đoàn và 10 lữ
đoàn chủ lực (có 7 sư đoàn và 4 lữ đoàn Mỹ), 4.000 chiếc máy bay, 2.500 xe
tăng, xe bọc thép, 2.500 khẩu pháo, 500 tàu thuyền chiến đấu cùng hàng chục vạn
tấn bom đạn, chất độc hóa học. Nếu tính cả số quân Mỹ trên Hạm đội 7, ở các căn
cứ quân sự Mỹ tại Thái Lan, Nhật Bản, Phi-líp-pin, Gu-am tham gia chiến tranh
Việt Nam, thì tổng cộng số quân tham chiến trong cuộc phản công lần này vượt xa số quân tham gia cuộc phản công lần
thứ nhất; gần 1 triệu 20 vạn lính Mỹ, quân đội Sài Gòn và quân đồng minh[26].
Ngoài ra, Mỹ, quân đội Sài Gòn còn tung vào cuộc phản công hàng vạn tề điệp ác
ôn, hàng trăm đội "cán bộ bình định".
Để chi phí cho một lực lượng tham
chiến lớn như vậy, Giôn-xơn đã buộc phải tăng
ngân sách quân sự tài khóa 1966-1967 lên tới mức cao. Ngân sách đó dự toán
lúc đầu 48 tỉ đô la, sau tăng lên 68 tỉ đô la, trong đó 40%, tức xấp xỉ 28 tỉ
đô la là dành cho cuộc chiến tranh Việt Nam.
Rút kinh nghiệm từ cuộc phản công
lần trước, lần này, mặc dù lực lượng quân sự đã tăng thêm nhưng Bộ Chỉ huy quân
sự Mỹ (M.A.C.V) đã chủ trương chỉ tập trung quân đánh trên một hướng (miền Đông Nam Bộ) nhằm "tìm diệt"
chủ lực Quân giải phóng và cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam. Bên cạnh gọng kìm "tìm diệt", Bộ
Chỉ huy quân sự Mỹ nhấn mạnh hơn trong việc tăng cường chương trình "bình
định" so với đợt một, xem đó là gọng kìm quan trọng thứ hai trong mùa phản
công chiến lược này. Toàn bộ chủ lực quân đội Sài Gòn được sử dụng vào nhiệm vụ
"bình định" nhằm kiểm soát khu vực đồng bằng quan trọng, nới rộng vành đai an ninh quanh các đô thị
lớn, từ đó tiến tới cô lập và tiêu
diệt cơ sở cách mạng ở nông thôn đồng bằng và vùng ven đô thị. Trên các
hướng đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Trị - Thiên, Mỹ chủ trương kiềm chế
hoạt động của Quân giải phóng, chú trọng phòng thủ khu vực Đường 9 - Quảng Trị.
Hỗ trợ cho cuộc phản công chiến lược lần thứ hai này, Mỹ đẩy mạnh cuộc chiến
tranh phá hoại miền Bắc, gấp rút triển khai các hoạt động ngoại giao thăm dò
thái độ của Hà Nội và để đối phó với dư luận trong nước cũng như trên thế giới.
Với nỗ lực quân sự lớn và bằng những
thủ đoạn quân sự, chính trị, ngoại giao kết hợp trên đây, giới cầm quyền
Oa-sinh-tơn hy vọng cuộc phản công chiến lược lần này sẽ giành thắng lợi, làm chuyển biến cục diện chiến trường vào giữa hoặc cuối năm 1967 có lợi cho Mỹ để bước vào năm 1968 - năm
bầu cử tổng thống Mỹ.
Thực hiện ý đồ đó, về mặt quân sự, từ tháng 10 năm 1966 đến tháng 6 năm 1967, theo số liệu của đối phương[27],
Mỹ, quân đội Sài Gòn và quân đồng minh đã mở 2.732 cuộc hành quân "tìm
diệt" và càn quét từ cấp tiểu đoàn đến cấp quân đoàn, trong đó có 426 cuộc
hành quân của quân Mỹ và quân đồng minh; chủ yếu làm nhiệm vụ "tìm diệt" chủ lực và cơ quan chỉ đạo
cách mạng miền Nam. Nhằm mục tiêu đó, toàn bộ nỗ lực quân sự của lực lượng
chiến đấu Mỹ hiện có trên chiến trường miền Nam chủ yếu dồn vào việc đánh phá
các căn cứ của lực lượng cách mạng miền Nam ở phía Bắc và Đông Sài Gòn. Trên
hướng này, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tập trung 7 sư đoàn, 5 lữ đoàn quân Mỹ, quân
đội Sài Gòn và đồng minh, trong đó có những đơn vị thiện chiến của quân đội Mỹ
như sư đoàn bộ binh số 1, sư đoàn bộ số 25; lữ đoàn dù 173, 199... Trong vòng 6
tháng (từ tháng 10 năm 1966 đến tháng 4 năm 1967), trên hướng này, đối phương
liên tiếp mở 3 cuộc hành quân quy mô lớn nối tiếp nhau, đánh vào cụm căn cứ ở
phía Bắc Sài Gòn.
Ngày 14 tháng 9 năm 1966, đối phương
mở cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ (Atteleboro) với 30.000 quân Mỹ và quân đội Sài
Gòn, nhằm đánh đòn bất ngờ vào khu căn cứ Dương Minh Châu, tiêu diệt chủ lực,
phá căn cứ, kho tàng[28].
Phán đoán được ý đồ của đối phương,
Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền quyết định sử dụng Sư đoàn 9, các đơn vị pháo
cối, đặc công, bộ đội địa phương, dân quân du kích Dầu Tiếng, Tây Ninh và tự vệ
cơ quan chủ động mở chiến dịch Tây Ninh nhằm
đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của đối phương. Lực lượng Quân giải phóng
được bố trí sẵn trên những khu vực dự kiến đối phương sẽ tiến công, hình thành
thế trận liên hoàn hỗ trợ cho nhau giữa phía trước, phía sau, giữa các thứ
quân: chủ lực, địa phương, dân quân du kích và tự vệ cơ quan... Dựa trên thế
trận đó, lực lượng vùng căn cứ liên tục chặn đánh và tiến công vào đội hình
hành quân của các đơn vị Mỹ, bẻ gẫy nhiều mũi tiến quân và gây cho Mỹ nhiều
thiệt hại về sinh lực, phương tiện chiến tranh. Sau 72 ngày đêm đối phó với lực
lượng vùng căn cứ trong một thế trận bất lợi cho Mỹ, ngày 24 tháng 11,
Oét-mo-len phải chấm dứt cuộc hành quân, rút toàn bộ lực lượng còn lại ra khỏi
khu vực căn cứ Dương Minh Châu trong khi các mục tiêu đề ra cho cuộc hành quân
không thực hiện được.
Sau cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ, Bộ
Chỉ huy quân Mỹ dồn sức củng cố lực lượng, ổn định tinh thần sĩ quan và binh
lính Mỹ, mở tiếp cuộc hành quân Xi-đa-phôn (Cedarfall) - cuộc hành quân lớn cấp
quân đoàn thứ hai đánh vào Bến Súc - Củ Chi - Bến Cát - khu vực bàn đạp của Quân
giải phóng uy hiếp Sài Gòn từ phía Bắc. Đối phương sử dụng vào cuộc hành quân này các sư đoàn bộ binh số 1, số 25, lữ
đoàn dù 173 và trung đoàn thiết giáp số 11 Mỹ, cùng một số chiến đoàn quân
đội Sài Gònvà hàng trăm xe tăng, trọng pháo, hàng ngàn lượt chiếc máy bay ném
bom, máy bay trực thăng vũ trang. Với quy mô như thế, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tin
chắc sẽ "tìm diệt" được các đơn vị
chủ lực Quân giải phóng, phá căn cứ du kích, chia cắt vùng giải phóng
hai tỉnh Gia Định, Thủ Dầu Một, mở rộng khu vực vành đai phòng thủ phía Bắc Sài
Gòn.
Thế
nhưng, dựa vào hệ thống công sự, địa đạo được cấu trúc vững chắc, quân và dân
Củ Chi, Bến Cát, Trảng Bàng đã bám trụ kiên cường, liên tục tổ chức các trận
tập kích vào đội hình trú đóng ban đêm của quân Mỹ, quân đội Sài Gòn. Nhân lúc đối
phương đang lo đối phó với lực lượng vũ trang tại chỗ thì chủ lực Quân giải
phóng miền Nam phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ của Quân khu Sài Gòn -
Gia Định mở các cuộc phục kích, tập kích vào bên sườn, sau lưng các đơn vị quân
Mỹ, gây nhiều thiệt hại về sinh mạng và phương tiện chiến tranh.
Sau gần một tháng đánh phá, chịu tổn
thất hàng nghìn lính chiến đấu nhưng không tiêu diệt được lực lượng vũ trang ẩn
sâu dưới hệ thống công sự, địa đạo, ngày 26 tháng 1 năm 1967, đối phương buộc
phải chấm dứt cuộc hành quân, dồn 15.000 dân về thị xã Bình Dương. Trong khi
đó, Thành ủy, Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Sài Gòn - Gia Định cùng Trung đoàn 16 chủ
lực Miền vẫn tiếp tục trụ bám ở vùng "đất thép" Củ Chi ngay sát Sài
Gòn - Gia Định. Đó là một thất bại nữa của đối phương trong cuộc phản công chiến
lược lần thứ hai này. Nhưng không phải vì thế mà Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ đã chịu
từ bỏ mục tiêu dùng lực lượng quân sự mạnh đánh vào căn cứ của Quân giải phóng nhằm
tiêu diệt cơ quan đầu não và chủ lực hòng thay đổi cục diện chiến trường, tạo
ra bước ngoặt chiến tranh có lợi cho Mỹ trong năm 1967. Nhằm mục tiêu này, Bộ
Chỉ huy quân sự Mỹ huy động 45.000 quân, 1.200 xe tăng, xe bọc thép, hơn 250
khẩu trọng pháo, 17 phi đoàn máy bay mở cuộc hành quân Gian-xơn - Xi-ti
(Junction City) - một cuộc hành quân lớn nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh
xâm lược của Mỹ ở miền Nam - đánh vào căn cứ Dương Minh Châu.
Căn cứ Dương Minh Châu, trong bản đồ
quân sự Mỹ, được gọi là chiến khu C. Đây là khu vực giữa vùng rừng núi rộng
lớn, thưa dân thuộc tỉnh Tây Ninh. Hình thành trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, tiếp tục được củng cố trong kháng
chiến chống Mỹ, căn cứ này là nơi tập trung cán bộ, nhân viên các cơ quan, nhà trường, xưởng máy, bệnh viện,
kho tàng, đài phát thanh... thuộc Trung ương Cục, Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam, Bộ Chỉ huy Miền. Hệ thống cơ quan, kho tàng, bệnh viện,
trường học... được bố trí dọc theo triền suối cạn, ẩn dưới tán rừng, trong các
công sự nửa chìm nửa nổi, nối liền với nhau bằng mạng giao thông hào liên hoàn,
chằng chịt. Ngay từ giữa năm 1966, trên cơ sở phán đoán ý đồ của Bộ Chỉ huy
quân sự Mỹ trong cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, Bộ Chỉ huy Miền đã
triển khai kế hoạch củng cố và tổ chức phòng thủ căn cứ theo phương châm trụ
bám đánh đối phương tại chỗ. Tiếp đó, sau cuộc
hành quân Xi-đa-phôn, Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền khẩn trương tổ
chức lực lượng nhân viên các cơ quan quân - dân - chính - Đảng thành những đơn
vị du kích tự vệ, bộ đội địa phương. Lực lượng này có nhiệm vụ trụ bám địa bàn,
đánh đối phương tại chỗ, tạo điều kiện cho chủ lực thực hiện các đòn đánh tiêu
diệt quân Mỹ. Vùng căn cứ được chia thành 13 "huyện", mỗi "huyện" chia thành từng "ấp", từng "xã" chiến đấu có hệ thống công sự,
trận địa, hầm hào vững chắc và liên hoàn hỗ trợ cho nhau.
Dựa trên thế trận chiến tranh nhân
dân được tạo ra ở địa bàn hầu như không có dân, lực lượng tại chỗ đã trụ bám
trận địa vật lộn với đối phương, tiến công rộng khắp bằng nhiều hình thức. Nhờ
đó, các đơn vị chủ lực Miền "dĩ dật
đãi lao", đón đánh vào chỗ sơ hở của đối phương, gây nhiều thiệt hại
về sinh lực và phương tiện chiến tranh. Trước
tình hình đó, ngày 15 tháng 5 năm 1967; Oét-mo-len buộc phải tuyên bố chấm dứt cuộc hành quân lớn
nhất này.
Thế là sau hơn 50 ngày đêm dồn sức
đánh vào vùng căn cứ rộng chừng 1.500km2, chịu tổn thất 14.000 quân,
gần 1.000 xe quân sự các loại, 160 máy bay nhưng Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ lại một
lần nữa không đạt được mục tiêu mong muốn! Thất bại có ý nghĩa chiến lược này
đã làm tiêu tan niềm hy vọng vào các cuộc hành quân "tìm và diệt" ở cấp
quân đoàn của Mỹ - các cuộc hành quân mà Nhà
Trắng hy vọng có thể trở thành giải pháp để giải quyết vướng mắc về
chiến tranh diện địa, qua đó mà giành thắng lợi
về quân sự ở Việt Nam. Ở các chiến trường khác như đồng bằng sông Cửu
Long, Khu 5, Tây Nguyên và Trị - Thiên, những
cố gắng quân sự của Mỹ không hề có một chút thắng lợi nào đáng kể. Đó là
tất cả những lý do vì sao Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn buộc phải tuyên bố
chấm dứt cuộc phản công chiến lược lần
thứ hai - mùa khô 1966-1967, lui quân về chiếm đóng trên các địa bàn chiến
lược, tập trung ở hai cực Sài Gòn - Gia Định và Trị - Thiên.
Cần phải nói thêm ở đây rằng: Trong
hai cuộc phản công của Mỹ mà chúng tôi trình bày trên đây, mặc dù Mỹ đều thất
bại, mặc dù cả hai cuộc phản công này phía Mỹ đều chủ trương thực hiện hai gọng kìm "tìm diệt" và
"bình định"; nhưng, ý nghĩa và mức độ của hai gọng kìm này ở mỗi cuộc
phản công có khác nhau - và chính điều khác biệt này, ngẫm cho kỹ, đã thể hiện
sự chủ quan, sai lầm về chiến lược của Bộ
Chỉ huy quân sự Mỹ.
Nếu như ở cuộc phản công lần thứ
nhất, Mỹ đặt mũi "tìm diệt" là chủ yếu, còn "bình định" chỉ
là mũi thứ yếu - mà ở đó, quân đội Sài Gòn được phân công đảm nhiệm với tư cách
là kẻ giữ nhà - thì, sang đến cuộc phản công lần thứ hai, do quan điểm quân sự máy móc của Mỹ lấy
việc "đếm xác Việt cộng và quân
Bắc Việt Nam" làm thước đo thắng lợi (!) Mỹ tin chắc rằng đã "tìm
diệt" được một bộ phận quan trọng chủ lực Quân giải phóng, làm mất chỗ đứng chân của họ ở đồng bằng, nên
đã chủ quan nâng gọng kìm "bình định" lên thành một gọng kìm ngang
tầm, song song với gọng kìm "tìm diệt".
Theo kế hoạch, Mỹ và Sài Gòn dự định
năm 1967 sẽ nỗ lực "bình định" 3.500 ấp trên toàn miền, tập trung vào
các vùng "ưu tiên quốc gia"[29].
Mục tiêu chủ yếu của chương trình "bình định" là nhằm triệt phá phần
lớn cơ sở cách mạng trong nông thôn miền Nam để tách lực lượng vũ trang khỏi sự
đùm bọc, che chở của nhân dân. Đó là biện pháp mà R.Cô-mơ (Robet Komer) - đặc
phái viên "bình định" của Giôn-xơn, quan niệm như "nhát dao đâm
vào tim Việt Cộng". Để đạt mục tiêu trên, ngoài việc đào tạo gấp rút
"cán bộ bình định"[30]
tung xuống nông thôn, Mỹ và chính quyền Sài Gòn còn sử dụng hầu hết toàn bộ
quân đội Sài Gòn kết hợp với lực lượng bảo an, dân vệ, cảnh sát... mở hàng ngàn
cuộc hành quân càn quét, liên tục đánh phá, chà đi xát lại nhiều vùng nông
thôn. Không quân và các trận địa pháo của Mỹ đã dội xuống vùng giải phóng, vùng
tranh chấp một khối lượng bom đạn khổng lồ và chất độc khai quang để tàn sát
dân thường, hủy hoại mùa màng, nhà cửa. Chính quyền Sài Gòn còn dùng những biện
pháp bạo lực nhằm cưỡng bách người nông dân phải bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn,
vào sống trong các "ấp đời mới", "ấp tân sinh" mà thực chất
cũng là biến tướng của mô hình "ấp chiến lược" thời Ngô Đình Diệm.
Bên cạnh các biện pháp quân sự, từ năm 1967, Mỹ, chế độ Sài Gòn còn triển khai
các chương trình kinh tế, chính trị, văn hóa... để hỗ trợ và thúc đẩy công cuộc
"bình định" tiến triển...[31].
Những biện pháp trên đây của Mỹ, chế
độ Sài Gòn đã làm cho cuộc đấu tranh chống phá "bình định" của quân
và dân miền Nam gặp nhiều khó khăn. Trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ và phức
tạp đó, đã có một bộ phận nông dân, thậm chí cả một bộ phận cán bộ, đảng viên
không chịu nổi thiếu thốn, hy sinh... đã bỏ vào vùng đối phương, ra đầu thú, đầu
hàng[32].
Nhưng nhìn chung, quân và dân ở các vùng nông thôn đã kiên trì phương châm
"3 bám" (bám đất, bám dân, bám đánh đối phương), đẩy mạnh "3 mũi
giáp công" (tiến công đối phương về quân sự, chính trị, binh vận), chặn
đánh quyết liệt các cuộc hành quân càn quét, hành quân "bình định"
của Mỹ, chế độ Sài Gòn; trừng trị tề điệp nằm vùng, tay sai ác ôn và các đoàn
"cán bộ xây dựng nông thôn"; phá rối và vô hiệu hóa chính quyền cơ sở
của đối phương ở nhiều nơi; giữ vững và mở rộng vùng làm chủ, vùng giải phóng;
xây dựng thành hệ thống làng xã chiến đấu liên hoàn, thành các "lõm chính
trị", khu du kích, thành "Vành đai diệt Mỹ" để bao vây, áp sát
các khu căn cứ quân sự Mỹ, các vùng ven đô thị, uy hiếp nhiều tuyến giao thông
huyết mạch. Do những cố gắng trên đây, chỉ trong mùa khô 1966-1967, quân và dân
miền Nam đã giành thêm 390 xã, ấp; nâng số xã, ấp được giải phóng lên 700 xã và
6.750 ấp. Trong khi đó, chính quyền Sài Gòn chỉ còn kiểm soát (ở các mức độ
khác nhau) 5.400 ấp trong tổng số 16.293 ấp trên toàn miền. Theo đánh giá của phía chính quyền Sài Gòn, chương trình
"bình định" năm 1967 chỉ đạt 13% so với kế hoạch ban đầu[33].
Thế nhưng, theo sự đánh giá Mai-cơn Mác-li-a, con số 13% trên đây vẫn là con số
phóng đại quá mức. Bởi vì, ngay tại những vùng mà chính quyền Sài Gòn thông báo
đã hoàn toàn kiểm soát thì "tình hình an ninh vẫn bị đe dọa. Bởi lẽ, làm
sao phân biệt được Việt cộng với người Việt Nam khác đi trên đường làng, làm
sao bảo đảm hạt giống đậu tương và máy khâu cấp phát đến tay dân"[34].
Vả chăng, ngay tại vùng do Mỹ, chế độ Sài Gòn kiểm soát hay tại những vùng
tranh chấp, bom đạn và lối sống Mỹ đang hàng ngày, hàng giờ phá vỡ cuộc sống và
lối sống vốn đã bình ổn từ nhiều năm của mọi gia đình Việt Nam, gây ra bao đau
thương, tang tóc, chia lìa cho mọi người dân thì cho dù Mỹ có cố gắng bao nhiêu
hoặc dùng thủ đoạn và biện pháp nào đi nữa, thì từ trong bản chất và trên những hành
động thực tế, Mỹ đã không thể tạo được không khí yên "bình" để mà ổn "định" lòng dân ở một phương trời xa
lạ! Nhiều tác giả Mỹ lúc bấy giờ và ngay cả sau này cũng đã từng thừa nhận thực
tế đó trong cố gắng "bình định" của Mỹ[35].
Trong
những điều kiện đó, phong trào đấu tranh chính trị tại những vùng do Mỹ, chế độ
Sài Gòn kiểm soát ngày càng phát triển. Năm 1967, tuy không bùng nổ thành cao
trào nhưng phong trào đã đi dần vào chiều sâu, gắn chặt với mục tiêu chung của
cả dân tộc là chống Mỹ và tập đoàn Thiệu - Kỳ. Mùa khô 1966-1967, hơn một triệu
đồng bào các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
biểu tình chống đối phương càn quét,
bắn pháo, rải chất độc phá hoại ruộng vườn, triệt phá mùa màng, bắt
lính, dồn dân, hỗ trợ cho phong trào chiến tranh
du kích phát triển. Trong các thành phố lớn Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, những
tháng đầu và các tháng 7, 8, 9 - 1967, học sinh, sinh viên, tăng ni, phật tử,
công chức, nhà buôn và các tầng lớp xã hội khác đã tổ chức một số cuộc biểu
tình, hội thảo với nội dung đòi Mỹ phải
rút quân về nước, đòi phải giữ truyền thống văn hóa dân tộc, chống lại sự
du nhập lối sống Mỹ; đòi Thiệu - Kỳ phải từ chức, đòi chấm dứt chiến tranh, vãn
hồi hòa bình. Trong các cuộc đấu tranh đó, hơn một trăm nhà sư đã tuyên bố sẽ
tự thiêu trên đường phố để phản đối Mỹ, chế độ Sài Gòn... Những cuộc đấu tranh
chính trị của nhân dân miền Nam nói trên đã góp phần làm cho tình hình chính
trị, xã hội của chế độ Sài Gòn thêm rối ren, hậu phương chiến tranh của Mỹ, chế
độ Sài Gòn càng thêm mất ổn định. Ngay cả hàng triệu nông dân miền Nam chạy vào
các đô thị để tránh sự tàn phá của bom đạn, chất độc hóa học của Mỹ thì cũng
không phải là họ "rút lui khỏi chính trị" mà thực chất, như nhận thức
của các chuyên gia Mỹ, đấy chính là biểu hiện sự "lãnh đạm có phần thân
Việt cộng" của số người đông đảo này![36].
Gọng kìm "bình định" của
Mỹ, chế độ Sài Gòn còn thất bại ở chỗ: khi đưa quân chiến đấu vào Nam Việt Nam,
Mỹ hy vọng có thể giúp cho chính quyền và quân đội Sài Gòn đủ sức tự đứng vững
để thực hiện mục tiêu chính trị của chiến lược "chiến tranh cục bộ", cũng
đã không thực hiện được - ngược lại, quân đội và chính quyền đó ngày càng phụ thuộc
nặng nề vào sự có mặt của quân đội Mỹ, cơ sở xã hội của chính quyền Sài Gòn ở
cả thành thị và nông thôn ngày càng bị thu hẹp dần. Đúng như bản Tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ
Quốc phòng Mỹ sau này ghi nhận: "Những người lãnh đạo Chính phủ Nam Việt
Nam (trừ Diệm) đã không thể tránh khỏi nhãn hiệu là "tay sai" trước
hết là của Pháp và sau đó là của Mỹ. Do đó, họ bị quần chúng coi là xa lạ. Sự
cầm quyền của họ chỉ là nhờ sự ủng hộ của Mỹ"[37].
Tình trạng đó khiến nhiều quan chức cao cấp trong chính phủ Mỹ ngay từ năm
1967, cũng đã trở nên ngao ngán: "Sự thật không đáng phấn khởi chút nào...
Vì, cũng như những năm 1961, 1963, 1965 đến năm 1967, Mỹ đã không tìm ra được
một "công thức" hoặc "chất xúc tác" nào để rèn luyện họ"[38].
Trên thực tế, chiến lược "chiến
tranh cục bộ" của Mỹ không chỉ dừng lại
ở hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định" ở miền Nam
mà thôi, mà hai gọng kìm đó, muốn thắng lợi, cần phải ngăn chặn bằng được sự
chi viện của miền Bắc. Vì thế, càng thất bại ở miền Nam, Mỹ càng leo thang đánh
phá miền Bắc dữ dội hơn. Đây là một điều tưởng như lôgíc nhưng lại chứa đầy mâu
thuẫn trong chiến lược Mỹ. Bởi vì, khi mà Mỹ hao tổn sức người, sức của vào
việc đánh phá miền Bắc hòng uy hiếp ý chí của miền Bắc trong việc chi viện cho
miền Nam thì cũng chính là lúc Mỹ đã rơi vào một canh bạc vô vọng: Leo thang đã
khó - mà leo thang đến đâu thì Mỹ chưa thể lường trước được bởi vì đây không
chỉ ở chỗ tiềm lực quân sự Mỹ là có hạn mà còn là ở chỗ đụng tới miền Bắc - một quốc gia có chủ quyền - là Mỹ
phải tính toán tới phản ứng của Liên Xô, Trung Quốc và toàn phe xã hội chủ
nghĩa lúc ấy. Nhưng không leo thang thì vô hình trung Mỹ đã tự thừa nhận thất
bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ". Cho nên, sự "leo
thang" của Mỹ, suy cho kỹ, lại là sự
thử thách ý chí xâm lược của chính Mỹ,
là con bài chót là Mỹ phải "chơi" trong "canh bạc Việt
Nam".
Chính vì lẽ đó mà bước vào năm 1967,
không quân Mỹ tập trung oanh tạc dữ dội sáu hệ thống mục tiêu trên miền Bắc là:
điện lực, công nghiệp, giao thông, kho dự trữ nhiên liệu, sân bay và các trận
địa phòng không, các cơ sở quân sự. Tháng 2 năm 1967, Giôn-xơn chuẩn y đề nghị
của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ, cho phép mở rộng phạm vi đánh phá
trong khu vực Hà Nội, Hải Phòng, tiến hành rải mìn trên các luồng sông, cửa biển,
dùng hải quân khống chế gắt gao khu vực ven biển từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến
20. Máy bay ném bom B.52 và pháo binh từ bờ Nam sông Bến Hải đã đánh phá dữ dội
khu vực Hồ Xá, Vĩnh Linh. Theo tính toán của một số tác giả Mỹ, đến cuối năm
1967, Mỹ đã ném xuống miền Bắc Việt Nam 1.630.000 tấn bom[39];
nhiều hơn khối lượng bom đạn Mỹ ném xuống châu Âu trong cuộc chiến tranh thế
giới thứ hai, gấp hai lần số bom ném xuống Triều Tiên, gấp ba lần số bom ném
xuống chiến trường Thái Bình Dương trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.
"Cái thác bom dội xuống Việt Nam đạt tới mức cứ mỗi dặm vuông hứng chịu
tới 12 tấn ở cả miền Bắc và miền Nam, và khoảng 100 pao (50kg) chất nổ chia cho
mỗi đầu người dân Việt; kể cả đàn bà và trẻ con, mà rất nhiều người trong số họ
không nặng tới trọng lượng đó; kể cả máu, thịt và xương"[40].
Bom đạn Mỹ đã gây cho miền Bắc những tổn thất nặng nề. Cơ quan phân tích của
Cục tình báo trung ương Mỹ ước tính, chiến dịch "Sấm rền" của không
quân Mỹ đã sát hại 13.000 người miền Bắc trong năm 1965, 24.000 người trong năm
1966 và khoảng 29.000 người trong năm 1967; phần lớn là dân thường (80%)[41].
Số liệu thống kê của Cục Tác chiến BTTM Quân đội nhân dân Việt Nam
cho biết, trong 4 năm (1964-1968), 14.000 quân nhân và 60.000 dân thường miền
Bắc đã bị bom đạn Mỹ giết hại[42].
Ngoài tổn thất về sinh mạng, miền Bắc còn bị thiệt hại nặng nề về vật chất, của
cải. Hầu hết hệ thống giao thông, cầu đường, nhà ga, kho tàng, bệnh viện và
nhiều cơ sở kinh tế, nhiều công trình công cộng... đều bị trúng bom Mỹ. 25
trong số 30 thị xã trên toàn miền Bắc bị tàn phá.
Dưới
bom đạn đánh phá ngày đêm vô cùng ác liệt của máy bay, tàu chiến Mỹ, miền Bắc
vẫn không nao núng ý chí, quyết tâm, vừa kiên cường đánh trả không quân, hải
quân đối phương, vừa duy trì sản xuất và tăng sức chi viện cho chiến trường.
Lực lượng phòng không ba thứ quân miền Bắc, bằng cách đánh mưu trí, sáng tạo,
kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến bảo vệ khu vực trọng điểm và tác chiến cơ động,
vừa thực hành chiến thuật "chốt" bảo vệ trực tiếp từng mục tiêu, vừa
"cơ động phục kích", hiệp đồng chặt chẽ giữa tên lửa với cao xạ, giữa
hỏa lực phòng không mặt đất với không quân
chiến đấu, giữa phòng không chủ lực với lực lượng phòng không của các địa phương... đã giáng trả mạnh mẽ các
bước leo thang của không quân Mỹ, bắn rơi, bắn cháy 1.067 máy bay trong năm
1967. Vùng bờ biển, lực lượng pháo binh 3 thứ quân cũng lập thành tích bắn
trúng, bắn cháy 69 tàu chiến đối phương ngoài khơi. Trên mặt trận giao thông
vận tải, mặc dù đối phương đánh phá, phong tỏa, ngăn chặn gắt gao bằng
nhiều thủ đoạn, khiến cho vận tải đường sắt, đường biển bị sút giảm nhưng bù
lại, lực lượng vận tải đường bộ, đường sông không ngừng phát triển về số lượng,
cải tiến về phương thức, nâng mức vận chuyển hàng hóa trong năm 1967 lên gấp 6 lần
so với năm 1965, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ vận tải chi viện
chiến trường.
Trên mặt trận sản xuất, khắc phục sự đánh phá ác liệt của máy bay, tàu chiến Mỹ, ra
sức tận dụng những điều kiện hiện có, nhân dân miền Bắc kiên cường bám ruộng đồng,
nhà máy, công sở, trường học, duy trì sản xuất, ổn định đời sống, phát triển sự
nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, làm cho miền Bắc thực sự là một hậu phương
vững bền, ổn định ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Hai năm 1966, 1967,
hậu phương đó đã đưa vào chiến trường 149.037 quân, đã động viên hơn 360.000
thanh niên nam, nữ vào quân đội, thanh niên xung phong, đáp ứng đòi hỏi ngày
càng tăng của cuộc chiến tranh trên cả hai miền đất nước[43].
Như vậy, đến năm 1967, cuộc chiến
tranh phá hoại miền Bắc của không quân, hải quân Mỹ đã không diễn ra xuôi xẻ
theo tính toán ban đầu trước "canh bạc Việt Nam" của giới lãnh đạo
Mỹ. Ngược lại, cuộc chiến tranh đó - cũng như cuộc chiến tranh trên bộ ở miền
Nam - đã gây ra cho chính Mỹ nhiều vấn đề nan giải; đặt Mỹ đứng trước tình thế
bế tắc mà hậu quả của nó là đã buộc Mỹ phải chịu những phí tổn nặng nề về tiền bạc và sinh mạng người Mỹ.
Về
kinh tế: Trong những năm chiến tranh đặc
biệt, Mỹ chỉ trích một khoản tiền không lớn lắm, (năm cao nhất cũng chỉ gần
1.500 triệu đô la trong khi ngân sách quốc phòng
hàng năm của Mỹ lên tới sáu hoặc bảy chục tỉ đô la) để chi phí cho huấn luyện, trang bị, nuôi dưỡng
quân đội Sài Gòn và đội ngũ cố vấn Mỹ
ở miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, những năm chiến tranh cục bộ, chi phí
cho chiến tranh Việt Nam tăng vọt, từ 4,7 tỉ đô la (tài khóa 1965-1966) tăng
lên 24 tỉ đô la (tài khóa 1966-1967) và hơn 30 tỉ đô la (tài khóa 1967-1968).
Chi phí chiến tranh thì ngày càng cao vọt nhưng chính quyền Mỹ không thể tính
đến việc bù đắp ngân sách bằng biện pháp tăng
thuế trong khi đang muốn bưng bít lừa dối dư luận và Quốc hội Mỹ về cuộc
dính líu ngày càng bị sa lầy sâu ở Việt Nam[44].
Chỉ nhìn vào những con số chi trong các tài khóa trên đây, cũng dễ dàng hình
dung cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam đã "ngoạm vào" ngân
sách của chính phủ liên bang đến mức độ nào. Một thống kê đáng tin cậy từ phía
Mỹ cho hay: nếu trong những năm từ 1964 trở về trước, ngân sách Chính phủ liên
bang đạt số dư trung bình là 3,6 tỉ đô la hàng năm, thì đến năm 1966 ngân sách bỗng
thiếu hụt 6,2 tỉ đô la và năm 1967 thiếu hụt 10,7 tỉ đô la. Sang năm 1967, ngân
sách của Chính phủ Hoa Kỳ thâm thủng tới 25,3 tỉ đô la![45].
Hệ quả tất yếu của tình trạng thiếu hụt ngân sách này là nạn lạm phát tăng
nhanh, trở thành "gánh nặng" tai
ác nhất trong tất cả gánh nặng của nước Mỹ thời kỳ này[46];
khiến cho nền kinh tế Mỹ, vào năm 1968, bắt đầu suy thoái[47].
Trong năm này, giá cả các mặt hàng tăng vọt
4%, sản xuất có biểu hiện ngừng trệ, đời sống nhân dân Mỹ gặp khó khăn,
3,8 triệu lao động Mỹ thất nghiệp hoàn toàn.
"Cuộc chiến tranh chống nghèo đói" mà Giôn‑xơn hứa với cử tri
Mỹ đã trở thành "cuộc chiến tranh gây
nghèo đói". Và, những mục tiêu của chương trình "Xã hội vĩ
đại" mà Giôn-xơn hứa hẹn trong cuộc tranh cử vào Nhà Trắng năm 1964 đã bị
"bắn gục trên chiến trường Việt Nam"[48].
Về
xã hội: Suy thoái kinh tế, một loạt các
vấn đề xã hội trong nước (nạn phân biệt chủng tộc, nạn thất nghiệp, nạn nghèo
đói, bệnh tật, thất học trong một bộ phận nhân dân lao động Mỹ...) bị phó mặc
cho ngẫu nhiên định đoạt do việc chính phủ liên bang ngày càng dồn tâm trí và
tiền của vào cuộc chiến tranh Việt Nam và cuối cùng, số lính Mỹ bị chết trên
chiến trường Việt Nam ngày càng nhiều đã làm cho bầu không khí xã hội Mỹ trở
nên u ám, nặng nề, khiến cho một bộ phận công chúng Mỹ từ chỗ ủng hộ đã chuyển
sang phản đối chính sách chiến tranh Việt Nam của chính quyền Giôn‑xơn. Sau
này, khi xem xét kỹ dư luận công chúng Mỹ, Bộ Quốc phòng Mỹ nhận thấy
"sự ủng hộ chiến tranh Việt Nam giảm dần, đặc biệt sau khi xuất hiện sự
trì trệ trong nền kinh tế Mỹ cuối năm 1965, đầu năm 1966"[49].
Vào lúc đó, ở nhiều thành phố lớn của Mỹ, phong trào phản đối chiến tranh, phản
đối chính quyền ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt là học sinh, sinh viên,
người Mỹ da đen mà cuộc sống thường ngày đã bị chiến tranh Việt Nam làm cho
gián đoạn, khốn đốn. Từ chỗ ban đầu chỉ là cuộc biểu tình tuần hành, hội thảo,
đốt thẻ quân dịch, bỏ ra nước ngoài..., bước sang năm 1967, phong trào phản đối
chiến tranh đã biến thành các cuộc bạo
động quyết liệt ở nhiều thành phố Mỹ như Niu Giếc-xây, Đi-troa, Mi-si-gân... Trong khi đó, các phương tiện truyền
thông Mỹ - bộ lọc giúp công chúng Mỹ nhận thấy và hiểu rõ cuộc chiến
tranh đẫm máu ở bên kia đại dương - đã và đang chuyển động theo hướng thay đổi lập trường đối với chiến tranh.
Nếu như, vào những ngày đầu Mỹ leo thang chiến tranh, báo chí Mỹ đã ủng hộ
đường lối của chính quyền thì giờ đây, nhiều tờ báo có thế lực và các hãng
truyền hình khổng lồ ở Mỹ đã chuyển sang nghi ngờ, bi quan và đặt lại vấn đề về
cuộc chiến tranh mà Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam. Ngay như tờ Thời báo Niu-oóc (The New York times) -
một tờ báo lớn ở Mỹ từng kiên trì ủng hộ một cách mạnh mẽ và đầy sức thuyết
phục cho cố gắng chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam thì giờ đây cũng thay đổi lập
trường. Sự "trở cờ" của tờ báo lớn này ở trong lòng nước Mỹ đã là một
đòn nặng giáng vào chính phủ"[50]
và là bằng chứng đau lòng về sự rạn nứt, khủng hoảng lòng tin của nhân dân và
chính giới Mỹ. Thế nhưng, tất cả sự phản đối chiến tranh diễn ra trên đường
phố, trong các khu đại học và trên mặt báo cũng như trong các chương trình phát
sóng của các hãng truyền hình Mỹ... không còn là làn sóng dư luận đơn thuần nữa
- mà đến đây, "làn sóng" này đã đủ sức
làm thay đổi lập trường của nhiều nghị sĩ
Quốc hội Mỹ - nơi mà các
"Ông Nghị" đông đảo đại diện cho các khối cử tri của từng bang trong
"Hợp chủng quốc Hoa Kỳ" đều đã cảm thấy chiến tranh Việt Nam đã
"gõ cửa từng gia đình" của chính họ. Vì thế, ngày càng nhiều nghị sĩ
phản đối chính sách chiến tranh cũng như cách thức tiến hành chiến tranh của cơ
quan hành pháp Mỹ. Họ đòi hỏi phải giảm bớt cam kết, hạ thấp các mục tiêu của
Mỹ ở Việt Nam, tìm một giải pháp nhằm sớm
đưa nước Mỹ thoát khỏi cuộc chiến tranh mà trước đó, trong Nghị quyết
"Vịnh Bắc Bộ", chính các "Ông Nghị" này đã long trọng tuyên
bố: tán thành và ủng hộ quyết tâm của Tổng thống, với tư cách là Tổng tư lệnh,
để có những biện pháp cần thiết nhằm đẩy lùi bất kỳ cuộc tấn công vũ trang nào
chống lại các lực lượng của Mỹ[51].
Xu hướng thay đổi đó trong lập trường Quốc
hội Mỹ đã và đang trở thành áp lực chính trị ngày càng tăng đối với
chính quyền Mỹ và đối với cá nhân Tổng thống Mỹ Giôn‑xơn.
Đứng trước thái độ của dư luận và
sức ép từ phía Quốc hội, nội bộ Chính phủ
Mỹ càng thêm phân hóa. Một cuộc thăm dò dư luận cho thấy, sự tín nhiệm của
nhân dân Mỹ với chính phủ Giôn-xơn từ cuối năm 1966 trở đi đã sa sút nghiêm
trọng. Người ta thấy đây là một chính phủ đang phải tự vật lộn với mình vì một
số nhà vạch kế hoạch ở cấp cao đã thay đổi quan điểm trước sức ép của một cuộc
chiến tranh kéo dài. Đại loại, sự thay đổi quan điểm ở đây có thể chia thành ba
loại khác nhau: Một là phe
Mắc-na-ma-ra mà người ta vẫn quen gọi là "Nhóm Bồ câu bị vỡ mộng"
đang muốn tìm cách giới hạn để sau đó làm giảm bớt quy mô của cuộc chiến tranh;
hai là phe quân sự - "Nhóm Diều
hâu" - đứng đầu là các tham mưu trưởng liên quân Mỹ và Tư lệnh Bộ Chỉ huy
quân sự Mỹ tại miền Nam - Tướng Oét-mo-len được xem như phái hiếu chiến nhất
lúc ấy, luôn gây sức ép thúc giục chính phủ phải mở rộng chiến tranh; ba là phái "Trung dung", tiêu
biểu là Tổng thống Mỹ Giôn-xơn cùng một số quan chức dân sự cấp cao trong chính
phủ và Bộ ngoại giao Mỹ. Sở dĩ gọi họ là phái "Trung
dung" vì họ đang đứng ở thế chênh vênh trên bờ vực phân ranh giới
giữa nhóm "Bồ câu" và nhóm "Diều hâu", cốt "dĩ hòa vi
quý" hòng chờ đợi một cuộc bầu cử cho thuận chèo mát mái. Vào tháng 3 năm
1967, khi cuộc phản công chiến lược mùa khô
1966-1967 trên chiến trường Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị đánh bại
hoàn toàn, Oét-mo-len - Tư lệnh chiến trường Mỹ tại miền Nam - được Hội đồng
tham mưu trưởng liên quân Mỹ hậu thuẫn mạnh mẽ, đã đề nghị Oa‑sinh-tơn tăng
thêm lực lượng chiến đấu vào miền Nam. Tháng
4 năm 1967, ông được gọi về Oa-sinh-tơn để tường trình các "luận
chứng" mà ông ta yêu cầu. Trong cuộc gặp Tổng thống Giôn-xơn tại Nhà
Trắng, viên tư lệnh chiến trường này đã đề nghị xin tăng quân Mỹ vào miền Nam
Việt Nam theo hai mức. Mức một, gồm
100.000 quân là lực lượng tối thiểu mà theo ông, để kiềm chế áp lực đang gia
tăng của quân đội Bắc Việt Nam ở khu vực khu phi quân sự gây nên và để duy trì
"thế chủ động chiến thuật" của Mỹ trên chiến trường. Mức hai, gồm 201.250 quân để đưa tổng số
quân Mỹ chiến đấu ở miền Nam Việt Nam lên tới 671.616 người vào giữa năm 1968,
nhằm tiêu diệt hoặc làm tê liệt quân chủ lực của đối phương nhanh hơn và tước
bỏ những khu "đất thánh" an
toàn đã được Việt cộng thiết lập từ lâu ở Nam Việt Nam. Khi Giôn-xơn lo lắng
hỏi thời hạn dự định kết thúc cuộc chiến tranh sẽ là bao lâu nếu như vị tổng
thống này chấp nhận mức một hoặc mức hai, Oét-mo-len thưa rằng: nếu tăng quân ở
mức tối đa chiến tranh có khả năng
còn tiếp diễn trong 2 năm; tăng ở mức tối
thiểu - sẽ là 3 năm. Còn nếu yêu cầu tăng quân không được chấp thuận thì -
theo biên bản cuộc họp mà tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ dẫn, Oét-mo-len cho
rằng: Ông "sẽ không biết xoay xở ra
sao khi phải chống lại số quân tăng viện mà quân đối phương có thể cung cấp
được"[52].
Trong khi đó, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ lại yêu cầu mở rộng chiến
tranh mặt đất sang Lào, Campuchia và phần đất phía Nam của Bắc Việt Nam; leo
thang đánh phá toàn bộ hệ thống mục tiêu - kể cả đê điều của miền Bắc Việt Nam;
phong tỏa chặt cảng biển Hải Phòng; tăng
thuế và gọi quân trù bị Mỹ để bù
đắp vào số quân thiếu hụt ở các căn cứ quân sự Mỹ trên khắp thế giới do phải
dồn cho chiến trường Việt Nam. Nhưng, nếu chấp nhận những yêu cầu này, số phận
chính trị của bản thân Tổng thống Mỹ Giôn-xơn sẽ không còn hy vọng gì trong
cuộc bầu cử sắp tới. Vì thế, khi toàn bộ các đề nghị trên đây vừa được tiết lộ
thì sự bất đồng quan điểm một cách gay gắt giữa phái quân sự và phái dân sự
trong chính phủ Giôn-xơn nổi lên ngay lập tức, đến nỗi các tham mưu trưởng liên
quân Mỹ tuyên bố họ sẽ công khai từ chức
nếu các đề nghị nói trên của họ bị bác bỏ.
Ngay sau cuộc
họp giữa Giôn-xơn và Oét-mo-len, ngày 24
tháng 4 năm 1967, quyền Ngoại trưởng Mỹ Ni-cô-lai Ka‑zen‑bách (Nicolas
Kazenbach) đã ra lệnh tiến hành một cuộc kiểm điểm liên bộ - Ngoại giao, Quốc
phòng, Cục tình báo trung ương CIA, Tài chính... - về hai phương án lựa chọn
lớn trong đường lối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam:
Phương án một: Cung cấp cho Oét-mo-len thêm 200.000 quân, tăng cường các hoạt động quân sự trên mặt đất ra
ngoài lãnh thổ Nam Việt Nam, tăng cường cuộc chiến tranh trên không và trên
biển đối với miền Bắc Việt Nam.
Phương
án hai: Giới hạn tăng quân ở mức có thể
cung cấp mà không động viên quân dự bị, xét việc ngừng ném bom các vùng
ở phía bắc vĩ tuyến 20 hoặc "nếu muốn tạo một cơ hội có giải pháp thật hấp
dẫn (tức Hà Nội chấp thuận ngồi vào bàn thương lượng để Mỹ rút lui khỏi Việt
Nam trong danh dự - H.K) thì ngừng ném bom toàn bộ Bắc Việt Nam"[53].
Trong sự lựa chọn này, phái quân sự
kiên quyết giữ vững lập trường theo phương án một, phái dân sự phản đối gay
gắt, đòi thực hiện phương án hai.
-
Tại Bộ Ngoại giao Mỹ, trong bị vong lục gửi Quyền Ngoại trưởng N.
Ka-zen-bách ngày 1 tháng 5 năm 1967. Uy-li-am Bân-đi (William Putnam Bundy) -
Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương - chống lại việc mở
rộng các hoạt động mặt đất ra miền Bắc Việt Nam, kịch liệt phản đối đưa một sư
đoàn quân đội Sài Gòn vượt biên giới sang Lào, không đồng ý phong tỏa cảng Hải
Phòng vì sợ Liên Xô và Trung Quốc sẽ phản ứng mạnh.
- Ở Lầu Năm Góc, sự phản ứng lại xuất phát từ một hướng khác. Cục phân tích các hệ thống của Bộ Quốc
phòng Mỹ đã đưa ra một loạt các văn kiện nhằm bác bỏ lập luận của
Oét-mo-len khi ông này cho rằng: Tổn thất của Việt cộng và quân Bắc Việt Nam sẽ
tăng lên tương ứng với số quân Mỹ được đưa thêm vào Nam Việt Nam. Theo các văn
kiện mà Cục phân tích hệ thống Bộ Quốc phòng Mỹ công bố trong tháng 4 và tháng
5 năm 1967 thì, khi phân tích một loạt các trận đánh ở miền Nam Việt Nam, có
46% số trận do đối phương chủ động phục
kích quân Mỹ, 88% số trận do đối phương
chủ động khởi chiến, 63% số mục tiêu mà quân Mỹ gặp phải là những tay súng
của đối phương "ẩn sâu trong hầm hào hoặc địa đạo" khiến cho quân Mỹ khó có thể tiêu diệt được. Ngoài ra, thông qua
việc phân tích các trận giao tranh, cơ quan này còn đưa ra các tỉ lệ xác suất như sau: trong 56 trận, có 84% số trận do
đối phương sẵn sàng và dừng lại chiến đấu trong một kiểu trận địa chiến,
78% trường hợp do đối phương chủ động phục kích hoặc hoàn toàn nắm lợi thế về
yếu tố bất ngờ. Vì thế, theo cơ quan này,
trái với lập luận của Oét-mo-len, sự tăng thêm quân Mỹ vào Nam Việt Nam
không thể làm tăng thêm tổn thất tương ứng cho Việt cộng và quân Bắc Việt Nam.
Trong khi đó cũng vào đầu tháng 5 năm 1967,
Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) công bố 3
văn kiện tiếp sức thêm cho những người chống đối việc mở rộng chiến tranh không
quân chống miền Bắc Việt Nam. Theo đó, "27 tháng Mỹ ném bom đã ít có tác
dụng rõ rệt đến chiến lược chung của Hà Nội trong việc tiến hành chiến tranh,
ít tác động tới quan điểm đầy tin tưởng của họ về thương lượng". Trong văn
kiện công bố ngày 12 tháng 5 năm 1967, CIA cho rằng: "Thái độ của Bắc Việt
Nam sau những cuộc ném bom kéo dài là một thái độ kiên quyết đi đôi với sức
chịu đựng to lớn vẫn còn chưa bộc lộ hết"[54].
Được hỗ trợ bởi kết luận rút ra từ
những con số thống kê đó của các cơ quan phân tích trên đây, Mác Nót-tơn
(Mc.Naughton) - trợ lý Bộ trưởng Qquốc phòng, nhân vật có thế lực lớn hàng thứ
ba trong Lầu Năm Góc - đã cùng với Mắc-na-ma-ra phản đối gay gắt đề nghị của
phái quân sự. Trước sự phản đối này, dư luận Mỹ ngày đó hóm hỉnh - nhưng không
hề đùa bỡn - bình luận rằng: Mác Nót-tơn vốn là cha của đứa con trai 18 tuổi
sắp bước vào trường đại học, nên ông đặc biệt nhạy cảm với tình trạng bất mãn,
chống đối chính quyền, phản đối chiến tranh đang tăng nhanh trong thanh niên,
sinh viên và các tầng lớp xã hội khác ở Mỹ. Trong một bị vong lục gửi
Mắc-na-ma-ra, ông viết: "Một cảm giác mà nhiều người cảm thấy và cảm thấy
mạnh mẽ là chính quyền này mất trí, (...) là Mỹ đang cố gắng áp đặt một số hình
ảnh của mình lên những dân tộc xa xôi mà Mỹ không thể hiểu cũng như không thể
hiểu được thế hệ trẻ hiện nay ở nước Mỹ. Và chúng ta đang đưa sự việc đến mức
độ phi lý. Liên quan tới cảm giác này là tình
trạng phân cực ngày một tăng đang xảy ra trên nước Mỹ với những mầm mống của sự chia rẽ tệ hại nhất trong
nhân dân Mỹ kể từ hơn một thế kỷ nay". Vì vậy, giờ đây, ông cho rằng: "Triết lý của cuộc chiến tranh
Việt Nam phải được đưa ra tranh luận cho ra lẽ để ai nấy khỏi theo đuổi
những tiền đề của riêng mình và để khỏi đưa
nước Mỹ ngày càng chìm sâu thêm nữa"[55]
vào Việt Nam. Thực ra, đây không chỉ là ý kiến cá nhân của Mác Nót-tơn - dù cho
ông là nhân vật thứ ba của Lầu Năm Góc - mà đó còn là sự trùng hợp với quan
điểm của nhân vật số một ở Lầu Năm Góc là Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc-na-ma-ra.
Trong bị vong lục ngày 19 tháng 5 năm
1967 gửi Giôn-xơn, Mắc-na-ma-ra đã đưa ra những lập luận chống chiến lược mở
rộng chiến tranh. Thậm chí, theo nhận định của Mắc-na-ma-ra, nước Mỹ đã đi vào
con đường bế tắc, không thể có một giải pháp nào hấp dẫn khả thi được. Bởi vì,
dù cho Mỹ có tiếp tục chính sách ôn hòa hiện nay, cố tránh một cuộc chiến tranh
mở rộng cũng sẽ không thể làm thay đổi được tư tưởng của Hà Nội; ngược lại, nếu
Mỹ tăng mức quân số và những hành động chống phá miền Bắc tất yếu sẽ dẫn tới
khả năng làm cho Mỹ mắc kẹt sâu hơn ở Đông Nam Á và lao vào một cuộc chiến
tranh với Trung Quốc và Nga. Vì vậy, Mỹ buộc phải lựa chọn một trong số
"những giải pháp không hoàn hảo"[56].
Cụ thể là ông đưa ra kiến nghị: "Chính phủ Mỹ cần khuyến khích chính quyền
Sài Gòn tiếp xúc với những phần tử không
Cộng sản thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, sẵn sàng chấp thuận việc
thành lập một chính phủ "có đủ màu sắc" ở miền Nam Việt
Nam"[57].
Xem ra, ý kiến trên đây của Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ còn lúng túng hơn cả Mác Nót-tơn: "Xuống thang"
thì không thỏa mãn Hà Nội; "Leo thang" thì sợ đụng đầu với Liên Xô và
Trung Quốc. Còn như trông mong ở chính quyền Sài Gòn để tìm những phần tử không
Cộng sản - thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam để bấu víu vào thì
khác gì đi tìm mặt trăng lúc chính ngọ!
Trước những quan điểm trái ngược và
lúng túng của đội ngũ cố vấn cấp cao trong chính phủ lúc đó, Tổng thống Mỹ đành
phải chọn con đường mà các tài liệu gọi là tiếp tục "Leo thang từng
bước" hay là đường lối "O ép từ từ"[58].
Cái đường lối "trung dung" của Giôn-xơn là như vậy đó: "Leo
thang" hay "o ép" là chữ dùng để thỏa mãn phái "Diều
hâu"; còn như "từng bước" và "từ từ" là chữ dùng để an
ủi phái "Bồ câu" vậy!
Thế là, mùa thu năm 1967, Giôn-xơn
phải thực thi những hành động cũng thật "trung dung" nửa vời hòng
dung hòa cả hai phái bằng cách quyết định tăng thêm 55.000 quân sang miền Nam
Việt Nam (thay vì 200.000 quân như Oét-mo-len đề nghị), chấp thuận yêu cầu của
Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ oanh tạc thêm 57 mục tiêu ở miền Bắc Việt
Nam (chứ không phong tỏa cảng Hải Phòng như Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân
Mỹ yêu cầu). Tuy nhiên, việc động viên lực lượng trù bị như đề nghị của giới
quân sự Mỹ vẫn được Giôn-xơn xem như một hàng rào chính trị mà ông không muốn
vượt qua.
Tất
cả những diễn biến trên đây đã biểu hiện chính giới Mỹ đang ngập ngừng đứng
trước ngã ba đường trong việc tìm kiếm chiến
lược mới của Mỹ tại chiến trường Việt Nam.
Như
vậy, trải qua hai năm tiến hành chiến tranh cục bộ, mặc dù đã áp dụng nhiều thủ
đoạn và biện pháp về quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao và đã chịu nhiều
tổn thất to lớn về người và của nhưng phía Mỹ vẫn luôn luôn ở thế bị động về chiến lược và chiến thuật.
Tất cả các mâu thuẫn của việc Mỹ đưa quân vào miền Nam[59]
không những không khắc phục được mà ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Kế hoạch chiến lược dự định giành thắng
lợi quyết định, hoàn tất các mục tiêu chiến lược, rút quân Mỹ về nước vào giữa
hoặc cùng lắm cuối năm 1967 mà Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam vạch ra và đã
được Oa-sinh-tơn chấp nhận từ ngày đầu chiến tranh cục bộ, đã bị phá vỡ[60].
Thực tế đó được chính Oét-mo-len - Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam
Việt Nam - thừa nhận trong cuộc gặp Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tại thủ đô
Oa-sinh-tơn tháng 4 năm 1967. Theo Oét-mo-len, "trừ phi ý chí chiến đấu
của đối phương (tức nhân dân Việt Nam) bị đập tan hoặc tổ chức cơ sở của Việt
cộng bị phá vỡ, còn không, cuộc chiến tranh có thể còn phải tiếp diễn trong
vòng năm hoặc sáu năm nữa"[61].
Đến giữa năm 1967, chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ đã bị chặn
đứng lại. Chẳng những thế, việc thất bại này đã làm cho quân Mỹ bị chủ lực Quân
giải phóng miền Nam kéo vào "trò chơi đuổi bắt" và thực tế, lực lượng
của Mỹ và đồng minh bị căng mỏng trên các chiến trường, bị vây hãm trong thế
trận chiến tranh nhân dân Việt Nam. Đồng thời, việc ném bom nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và đường mòn Hồ Chí Minh một cách ào ạt và liên tục cũng đã tự nó
nói lên rằng: Tác động của chiến tranh không quân cuối cùng cũng mỏng manh như
biện pháp "tìm diệt" và "bình định" trong việc xác định kết quả của cuộc chiến tranh hạn
chế. Việc đó chẳng những không giải quyết được thế tiến thoái lưỡng nan của
Mỹ trong chiến lược chiến tranh hạn chế - một loại chiến tranh mà Mỹ đã không
thể giữ thế trá hình, giấu mặt, buộc phải nhảy ra và dấn sâu vào cuộc chiến
tranh ở Việt Nam cách xa Mỹ nửa vòng trái đất; mà thất bại đó cùng với những
tổn phí nặng nề về đô la và sinh mạng lính Mỹ còn đặt Mỹ đứng trước những khó
khăn rất lớn về chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội - không chỉ ở miền Nam Việt
Nam mà cả trong lòng nước Mỹ. Tình hình này ngày càng trở nên nóng bỏng trong
lúc nước Mỹ đang tiến dần tới năm vận động tranh cử tổng thống nhiệm kỳ mới
1968 - 1972. Đây là thời điểm rất nhạy cảm trong đời sống chính trị, xã hội
nước Mỹ. Vì thế, mặc dù muốn nghiêng về giới quân sự hiếu chiến để tăng
thêm hàng chục vạn quân Mỹ vào miền Nam, đẩy mạnh hơn nữa chiến tranh phá hoại
miền Bắc... nhưng Tổng thống Mỹ Giôn-xơn
vẫn buộc phải thận trọng trong việc tính toán, chọn lựa bước đi của Mỹ ở Việt
Nam sao cho vừa tránh được sự đảo lộn bất ngờ nào trên chiến trường, vừa xoa
dịu được dư luận trong nước, ổn định được nội bộ để có thể bước vào năm vận
động tranh cử một cách "xuôi chèo, mát mái"; giành thắng lợi thêm một
nhiệm kỳ mới để tiếp tục nỗ lực quân sự ở Việt Nam...
Về
phía Việt Nam, qua hai năm đương đầu với chiến
tranh cục bộ, quân và dân miền Nam vẫn giữ vững và phát huy mạnh mẽ thế
tiến công, đánh bại các cố gắng chiến tranh của đối phương, làm phá sản một
bước quan trọng kế hoạch chiến lược, giữ vững quyền chủ động chiến trường, mở
rộng vùng giải phóng và vùng làm chủ ở khu vực rừng núi, nông thôn đồng bằng và
xung quanh các đô thị, các căn cứ, các tuyến giao thông huyết mạch của Mỹ, chế
độ Sài Gòn. Lực lượng quân sự và lực lượng chính trị của Quân giải phóng đến
năm 1967 đã phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Trên chiến trường miền
Nam, chỉ riêng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương đã tăng từ 115.500 (năm
1964) lên 176.600 (1966) và 277.000 (1967). Ngoài ra, khắp mọi địa phương miền Nam,
lực lượng dân quân du kích cũng có bước phát triển. Tất cả các đơn vị bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích được bố trí tương đối hợp lý
trên các địa bàn chiến lược và đã vận dụng các phương thức tác chiến một cách
linh hoạt, tiêu diệt được nhiều sinh lực đối phương, nhất là đã đánh vào một số
thành thị, vào hàng loạt căn cứ, sân bay, kho tàng và đường giao thông chiến
lược Mỹ và quân đội Sài Gòn. Trong khi đó, lực lượng chính trị và các hình thức
đấu tranh chính trị trong những vùng bị Mỹ và chế độ Sài Gòn kiểm soát, nhất là
ở các đô thị cũng được chú trọng phát triển.
Trên miền Bắc, mặc dù chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ
ngày càng mở rộng cả về quy mô, cường độ và gây ra những tổn thất nặng nề về
người và của, nhưng trong khói lửa chiến tranh, miền Bắc vẫn là một hậu phương
ổn định và bền vững. Tính ổn định và bền vững đó của hậu phương chiến tranh là
một trong những nhân tố vô cùng quan trọng để miền Bắc cùng một lúc vừa sản xuất, vừa chiến đấu đánh bại các bước
leo thang của không quân, hải quân Mỹ, vừa đáp ứng mạnh mẽ và liên tục
mọi yêu cầu ngày càng tăng của chiến trường.
Trên thế giới, sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam ngày
càng được dư luận thế giới và chính phủ nhiều nước đồng tình ủng hộ, giúp đỡ.
Tất cả các nhân tố khách quan trên
đây đã được Bộ Chính trị Trung ương Đảng LĐVN và Quân ủy Trung ương theo dõi
chặt chẽ, kịp thời đánh giá để đi tới nhận định: một thỜi cơ mỚi đang xuất hiện cho phép có thể và cần phải tìm phương cách khai thác triệt để nhằm tạo
thế xoay chuyển cục diện chiến tranh. Vấn
đề đặt ra ở đây là: tuy Mỹ bị sa lầy và
rất lúng túng trong ý đồ chiến lược bởi thấy sức mạnh quân sự của Mỹ không
thể giành thắng lợi trên chiến trường Việt Nam, song Mỹ vẫn chưa sẵn sàng xuống thang chiến tranh, vẫn muốn dùng sức
mạnh quân sự để ép đối phương ngồi vào
bàn đàm phán theo điều kiện của Mỹ. Trong khi đó, mặc dù đã giành được thắng lợi, làm
thất bại các mục tiêu chiến lược của Mỹ qua hai mùa phản công nhưng phía Việt Nam cũng chưa đủ lực để mong
đánh bật được 50 vạn quân chiến đấu Mỹ và quân đồng minh ra khỏi miền Nam. Muốn chớp thời cơ có
lợi để tạo nên bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh - trong điều kiện so
sánh lực lượng quân sự trên chiến trường vẫn nghiêng về phía đối phương, cần
phải giải quyết một loạt vấn đề thuộc về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, nhằm
tác động nhanh, mạnh và kịp thời tới ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu
thua về quân sự, phải xuống thang chiến tranh...
Đây là lúc mà VNDCCH có thể thực
hiện ý đồ đề ra từ tháng 1 năm 1967 là "cần phải tích cực, khẩn trương,
kiên quyết và linh hoạt, cố gắng đến cao độ để thực hiện chủ trương giành thắng lợi quyết định trong thời gian
tương đối ngắn, đồng thời tạo nên những điều kiện và cơ sở vững chắc để đánh thắng đối phương trong tình huống
chiến tranh kéo dài"[62].
Download
toàn văn bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
[1] Tuyên bố của Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ Về
các mục tiêu và đường lối hành động của Mỹ ở Đông Nam Á đầu năm 1952. Dẫn
theo Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Việt Nam thông tấn xã dịch và phát hành 8.1971, T1, tr.39. Những chỗ in
nghiêng là do chúng tôi (H.K).
[2] Tuyên bố của
Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ Về các mục tiêu và đường lối hành động của Mỹ ở
Đông Nam Á đầu năm 1952. Dẫn theo Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về
chiến tranh xâm lược Việt Nam. Việt Nam thông tấn xã dịch và phát hành
8.1971, T1, tr.39. Những chỗ in nghiêng là do chúng tôi (H.K).
[3] Kết luận của
Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ tháng 8.1954. Dẫn theo Tài liệu mật Bộ Quốc phòng
Mỹ. Tlđd, T1, tr.27.
[4] 4 năm
(1955-1958), cả miền Nam tổn thất 9/10 số cán bộ, đảng viên. Ở Nam Bộ, khoảng 7
vạn cán bộ, đảng viên bị đối phương giết; gần 90 vạn cán bộ, đảng viên bị bắt,
bị tù đày; gần 20 vạn bị tra tấn thành tàn tật, chỉ còn 5.000 đảng viên so với
60.000 đảng viên trước đó. Ở Khu 5 (lúc bấy giờ còn gồm cả Trị - Thiên và cực
Nam Trung Bộ), khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên, 70% chi bộ viên xã
bị bắt, bị giết. Riêng Trị - Thiên chỉ còn 160 trong tổng số 23.400 cán bộ,
đảng viên trước đó. Dẫn theo Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ
Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài
học, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1996, tr.321.
[5] Tạp chí Blater
(Tây Đức). 4.1963. Dẫn theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam; Lịch
sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, H, Nxb Sự thật, 1991, T1, tr.65.
[6] Ví như Mỹ từng
bước đưa các đơn vị chiến đấu Mỹ cỡ lữ doàn vào tham chiến ở miền Nam, sử dụng
không quân, hải quân Mỹ đánh phá miền Bắc trên quy mô ngày càng mở rộng...
[12] Theo báo cáo
về cuộc chiến tranh Việt Nam của Gr.Sap và Oét‑mo-len - Bộ Quốc phòng Mỹ xuất
bản năm 1969, tính đến 1.1966, các đơn vị Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam gồm: Sư
đoàn lính thủy đánh bộ số 1, sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3, sư đoàn kỵ binh
bay số 1, sư đoàn bộ binh số 1, lữ đoàn 1 sư đoàn 101, lữ đoàn 2 sư đoàn 25, lữ
đoàn dù 173.
[13] Theo sách Lịch
sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), T1, Nxb Sự thật, H, 1990,
kết quả mùa khô 1965-1966, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu
68.000 lính, trong đó có 3,5 vạn lính Mỹ, tiêu diệt và đánh thiệt hại 9 tiểu
đoàn Mỹ, 7 tiểu đoàn quân đội Sài Gòn, bắn
rơi, phá hủy 940 máy bay, bắn cháy, phá hỏng 6.000 xe quân sự.
[16] Đến hết tháng 4 năm 1966, số máy bay Mỹ bị bắn rơi
trên vùng trời miền Bắc là 1.005. Con số này đạt tới 1.620 chiếc
vào tháng 12 năm 1966.
[20] Tài Liệu
mật Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết tham dự hội nghị này là "các nhà khoa
học xuất sắc nhất của Mỹ, những người đã giúp chính phủ sản xuất nhiều hệ thống
vũ khí hiện đại nhất - kể từ khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc".
[25] Được Mỹ thành
lập vào tháng 9 năm 1954, bao gồm các nước Mỹ, Anh, Pháp, Ốt-xtrây-li-a, Niu
Di-lân, Pa-kit-xtan, Phi-líp-pin, Thái Lan. Trong Hiệp ước của khối này, Đông Dương
được xem là "Khu vực bảo hộ" của khối(!).
[26] Trong khi đó, đối phương ước đoán lực lượng vũ
trang Quân giải phóng ở miền Nam có 7 sư đoàn, 33 trung đoàn, 147 tiểu
đoàn, tổng cộng 280.000 quân. Dẫn theo: Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân
mới của đế quốc Mỹ ở Việt nam, Sđd, tr.134.
[28] Lực lượng quân Mỹ tham gia cuộc hành quân gồm lữ
đoàn bộ binh nhẹ 196, 5 lữ đoàn bộ binh thuộc các sư đoàn 1, 4, 25, lữ
đoàn dù 173 và trung đoàn thiết giáp 11.
[29] Đó là các địa
phương xung quanh Sài Gòn - Gia Định, các tỉnh Long Khánh, Phước Tuy, Bình
Dương, Long An, Tây Ninh, Bình Long, Vĩnh Long, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba
Xuyên, Kiến Phong, Trị -Thiên, Bình Định, Tuy Hòa, Lâm Đồng, Plây Cu, Công Tum.
[30] Chương trình
huấn luyện "Cán bộ bình định" (hoặc còn gọi là "cán bộ phát triển cách mạng") do Cục tình báo
trung ương Mỹ (CIA) đảm nhiệm về kinh phí và huấn luyện. Chương trình
này đã đào tạo, huấn luyện được gần 20.000 người trong năm 1966, 40.000 người
trong năm 1967 và 60.000 người trong năm 1968. Sau khi ra trường, toàn bộ số
này được chia thành các đoàn, mỗi đoàn 59 người; được tung về các vùng nông
thôn làm các công việc như phòng thủ, trị an
(30 người), giáo dục, y tế, văn hóa... (29 người). Tuy nhiên, chương
trình này vấp phải một loạt khó khăn. Một trong những khó khăn đó là việc tuyển
mộ những người xuất thân nông dân đã không đạt được con số như ý muốn của những
người phụ trách chương trình. Theo Mai-cơn Mác-li-a, tác giả cuốn Việt Nam -
cuộc chiến tranh mười nghìn ngày thì, sở dĩ có tình trạng này là bởi
"Việt cộng đã thu hút họ - những thanh niên nông thôn, vào tổ chức",
chỉ còn "một lũ thanh niên thành thị khoác áo bà ba đen gửi đến bảo vệ xóm
ấp để chống Việt cộng" (Tạp chí Lịch sử quân sự, số 9.1988).
[31] Tháng 3 năm
1967, Giôn-xơn triệu tập hội nghị Gu-am, nhằm soát xét toàn bộ chương trình
"bình định" được triển khai trong năm 1966 và bàn biện pháp thực hiện
trong năm 1967. Tại cuộc họp này, Giôn-xơn chính thức thông báo quyết định cử
R.Cô-mơ sang làm phó đại sứ ở miền Nam Việt Nam, đặc trách công tác "bình
định" cho Oét-mo-len, Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam (M.A.C.V).
"Cô-mơ có trong tay 1,7 tỉ đô la viện trợ kinh tế có thể sử dụng được...
Ông ta đã có hàng ngàn tấn lúa giống thần nông đủ loại, hàng ngàn tấn đỗ tương,
phân bón, hàng ngàn thùng dầu ăn, hàng tấn thuốc chữa bệnh, với những bãi đất
khổng lồ chất đầy xi măng và tôn, nhiều kho đồ sộ chứa đủ loại từ bàn chải răng
đến máy khoan, máy khâu, máy hàn kiểu mới nhất... Tất cả đã sẵn sàng để lôi
kéo 18 triệu quả tim và khối óc của nhân dân miền Nam". (Theo Mai-cơn
Mác-li-a: Cuộc chiến tranh ở nông thôn - Tạp chí Lịch sử quân sự
số 9.1988).
[32] Theo hồi ký
của Giôn-xơn, "số Việt cộng về chiêu hồi năm 1965 là 16.000, năm 1966 là
22.000, năm 1967 là 27.000. Đầu năm 1967 bắt được tài liệu mật của Việt cộng
nói họ mất khoảng 1 triệu dân chỉ trong nửa cuối năm 1966". Theo Giới
thiệu hồi ký của Giôn-xơn của Bộ ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
[33] Trong báo cáo
gửi lên Giôn-xơn đầu năm 1967 sau chuyến đi miền Nam Việt Nam trở về,
Mắc-na-ma-ra nhận định: "Công tác bình định có lẽ đã thụt lùi. So
với 2 hoặc 4 năm trước đây, các lực lượng địa phương thoát ly của đối phương và
các lực lượng du kích nửa thoát ly đã lớn mạnh hơn. Các trận đánh, khủng bố và
phá hoại đã tăng cả về cường độ lẫn quy mô. Nhiều đường xe lửa bị đóng
và đường bộ bị cắt đứt. Thóc lúa mà người ta chờ đợi đem bán ở ngoài chợ đã
không được nhiều. Hạ tầng cơ sở chính trị của Việt cộng lan ra hầu hết đất
nước, tiếp tục tạo cho kẻ đối phương lợi thế tình báo to lớn. Không ở đâu có
an ninh hoàn toàn, ngay cả sau phòng tuyến của lính thủy đánh bộ Mỹ và Sài
Gòn. Tại nông thôn, hầu như đối phương kiểm soát hoàn toàn về ban đêm".
(Theo Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, T2, Tlđd, tr.201).
[35] "Công
việc bình định lao đao y như một người bà con họ hàng nghèo vậy" (...).
Trên thực tế, "Mỹ không thể phá được quân Việt cộng khởi nghĩa,... không
thể nào đối phó được tốt với cả một đất nước thù đối phương với mình".
Theo Cincinatus: Tự hoại - sự tan rã và suy sụp của quân đội Mỹ trong kỷ
nguyên Việt Nam. Trung tâm thông tin - khoa học quân sự Bộ Tổng tham mưu
dịch.
[42] Tập thống kê số
liệu về Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) của Viện Lịch sử quân
sự Việt Nam.
[45] Dẫn theo R.
Stê-ven: Hy vọng hão huyền, thực tế phũ phàng - những hậu quả kinh tế của
chiến tranh Việt Nam. Viện TTKHXH-UBKHXH Việt Nam dịch, H, 1978.
[46] Phát biểu của
Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tại cuộc họp báo ở Oa‑sinh-tơn tháng 11 năm 1966, dẫn
theo Văn Tập: Chiến tranh Việt Nam và kinh tế Mỹ. Nxb Khoa học xã hội,
H, 1973.
[47] Phát biểu của
Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tại cuộc họp báo ở Oa‑sinh-tơn tháng 11 năm 1966, dẫn
theo Văn Tập: Chiến tranh Việt Nam và kinh tế Mỹ. Nxb Khoa học xã hội,
H, 1973.
[48] Phát biểu của
lãnh tụ người Mỹ da đen Mác-tin Lu-thơ-king, ngày 25 tháng 2 năm 1967. Dẫn theo
A.Am-tơ: Lời phán quyết về Việt Nam. Nxb Quân đội nhân dân, H, 1985,
tr.196.
[51] Nghị quyết
"Vịnh Bắc Bộ" của Quốc hội Mỹ. Dẫn theo A.Am-tơ: Lời phán quyết về
Việt Nam, Sđd, tr.95.
[56] . Dẫn theo Hồi
ký của Lin-đơn Giôn-xơn. Việt Nam Thông tấn xã dịch và phát hành, H, 1972,
tr.262
[57] . Dẫn theo Hồi
ký của Lin-đơn Giôn-xơn. Việt Nam Thông tấn xã dịch và phát hành, H, 1972,
tr.262
[59] Ví như mâu
thuẫn giữa việc đưa quân Mỹ vào trực tiếp tiến hành chiến tranh với yêu cầu
phải giấu mặt, trá hình của chính sách xâm lược thực dân kiểu mới; giữa đế quốc
Mỹ với dân tộc Việt Nam; giữa quân Mỹ với quân đội Sài Gòn; giữa phân tán và
tập trung binh lực; giữa chiếm đóng và cơ động; giữa "bình định" và
"tìm diệt"; giữa yêu cầu đánh nhanh, thắng nhanh và buộc phải đánh
kéo dài...
[60] Ngay từ tháng
10 năm 1966, Mắc-na-ma-ra đã nói với Giôn-xơn: Mỹ "đã dự đoán sai là chiến
tranh có thể kết thúc một cách thỏa đáng trong vòng hai năm". Dẫn theo: Tài
liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, T2, Tlđd, tr.207
[62] Chỉ thị
ngày 21.1.1967 của Thường trực Quân ủy Trung ương gửi Trung ương Cục, Quân ủy
Miền, Khu ủy Khu 5, Khu ủy Trị - Thiên. Dẫn trong Điện chỉ đạo cuộc Tổng
tiến công chiến lược năm 1968, tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!