PGS,TS. Hồ Khang
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy "Tết Mậu thân" 1968
của quân và dân Việt Nam, không chỉ sau này
mà ngay từ ngày đó - khi chiến sự đang diễn ra ở khắp các đô thị trên
toàn miền Nam, đã đưa lại những hậu quả và hệ lụy nặng nề cho phía Mỹ. Nó giáng
đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ sau bao năm theo đuổi chiến tranh Việt
Nam, buộc Mỹ phải đơn phương "xuống thang", thay đổi chiến lược, rút
dần quân Mỹ về nước... Để đi đến thắng lợi Tết Mậu thân 1968, cũng như phát huy
thắng lợi ấy trong tiến trình cuộc kháng chiến, đặc biệt là đối với việc kéo Mỹ
vào thế “đánh – đàm” có sự góp mặt tích cực của cuộc vận động, đấu tranh ngoại
giao trước và sau sự kiện Tết 1968.
I. Chủ động mở ra cục diện “đánh – đàm” và ý đồ tiến công chiến lược năm 1968
Đến cuối năm 1966, mặc dù đã thực hiện thí điểm những chiến
lược chiến tranh mới với phương tiện kỹ thuật hiện đại, song Mỹ vẫn không giành
được những chiến thắng quân sự mang tính quyết định buộc Việt Nam ngồi vào bàn
đàm phán. Để đẩy sức ép dư luận sang
phía Việt Nam, Mỹ đã tiến hành nhiều cuộc vận động ngoại giao[1],
gọi là để giải quyết vấn đề Việt Nam, song lại đòi Việt Nam thương lượng không
điều kiện với tính toán rằng, nếu bị khước
từ Mỹ sẽ lấy đó làm cớ tiến hành leo thang chiến tranh.
Về phía Việt Nam, thắng
lợi của hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 đã làm
thất bại một bước quan trọng chương trình “bình định” của Mỹ và chính quyền Sài
Gòn. Đây là “thắng lợi có tầm quan trọng rất lớn về chính
trị và quân sự, về chiến lược và chiến thuật. Đó là thắng lợi đối với hiệp đầu
của chiến lược chiến tranh cục bộ”[2].
Những thắng lợi này đã khiến đế quốc Mỹ “bị một đòn phủ đầu choáng váng hết sức
bất ngờ”[3],
đẩy Mỹ vào thế bị động. Trên thế giới, “Mỹ bị cô lập chưa từng thấy, cả những đồng
minh gần gũi của Mỹ cũng không ủng hộ chính sách chiến tranh xâm lược Việt Nam”[4]. Trên cơ sở phân tích tình hình mọi mặt có liên quan và theo
dõi sát diễn biến thực tế chiến trường, từ cuối năm 1966, đầu
năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng LĐVN đã nhận định rằng, đến thời điểm
này, những thắng lợi của quân và dân Việt Nam ở trên cả hai miền đất nước đã tạo
ra những khả năng mới để đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ, cô lập hơn nữa đế quốc Mỹ.
Đó là cơ sở để Bộ Chính trị Trung ương Đảng LĐVN đi tới chủ trương mở ra cục diện mới
vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh –
một sách lược quan trọng hỗ trợ trực tiếp, đắc lực, hiệu quả cho các mặt đấu
tranh quân sự, chính trị. Chủ trương này được
thể hiện tập trung, rõ nét trong Hội nghị Trung ương lần
thứ 13 (1-1967) – Hội nghị bàn về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến
công địch.
Hội nghị Trung ương
13 nhận định năm 1967-1968, đặc biệt là năm 1967, cuộc chiến đấu với đối phương
sẽ diễn ra rất gay go, quyết liệt. Âm mưu của địch là cố gắng thắng lợi quân sự,
tạo thế mạnh làm hậu thuẫn cho một giải pháp chính trị để kết thúc chiến tranh
có lợi nhất; đồng thời, chuẩn bị điều kiện để khi cần - tức là khi chưa đạt được
giải pháp chính trị có lợi, thì kéo dài chiến tranh. Quyết tâm chiến lược của Trung
ương Đảng LĐVN là động viên lực lượng cả nước đập tan âm mưu của địch, giành thắng lợi
quyết định trong một thời gian tương đối ngắn, tích cực chuẩn bị sẵn sàng đánh
địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài và mở rộng ra cả nước. Để thực hiện
quyết tâm chiến lược đó, thì ngoài việc ra sức đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu
tranh chính trị ở miền Nam, cần tiến công địch về ngoại giao, phối hợp với hai
mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa: “Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam
là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng
lợi trên mặt trận ngoại giao”[5]. Trên nguyên tắc: “Để
đánh bại kẻ thù hết sức ngoan cố và xảo quyệt là đế quốc Mỹ xâm lược, ta phải
giữ vững quyết tâm cao độ, nắm vững phương châm chiến lược; đồng thời, phải biết
cách đánh thắng địch, vận dụng sách lược khôn khéo, giành thắng lợi từng bước”[6],
Hội nghị chủ trương “đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, ta cần tiến
công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành
thắng lợi to lớn hơn nữa”[7].
Trên quan điểm “chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị
những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường”[8], Hội nghị Trung ương
13 đã chính thức đưa
ngoại giao lên thành một mặt trận trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tinh thần cơ bản nhất
của Hội nghị kiên định đường lối độc lập, tự chủ và chủ động tiến công đối phương về
ngoại giao.
Như đã nói ở trên, có một thực tế là để che dấu các âm mưu chiến tranh và bộ mặt
hiếu chiến, chính quyền L.Johnson
thường
xuyên sử dụng các cuộc vận động ngoại giao,
lôi kéo nhiều nước làm trung gian, chuyển yêu cầu, thông điệp đàm phán, thương
lượng đến Việt Nam. Khi chiến tranh mở rộng, Việt Nam
bị kẹt vào một thế khó bởi những bất đồng quan điểm trên nhiều vấn đề lớn có
liên quan đến cách mạng Việt Nam giữa Liên Xô và Trung Quốc – hai đồng minh
lớn, quan trọng, là những nước viện trợ trực tiếp và nhiều nhất cho Việt Nam[9].
Trước
tình hình đó, Hội nghị Trung ương 13 lưu ý hai vấn đề khi thực hiện sách lược
“đánh – đàm”: Các nước anh em hoặc nghi ngờ Việt Nam thương lượng non, hoặc
thúc ép đàm phán sớm; các nước trung gian cũng sẽ có những phản ứng khác nhau.
Từ những phân tích nêu trên, Đảng LĐVN chỉ rõ phải có kế hoạch vận động, giải thích,
thuyết phục các nước anh em, tránh không để đối phương lợi dụng bất đồng về
sách lược giữa Việt Nam với bạn bè, đồng minh; đối với các nước khác, “cần
tranh thủ sự ủng hộ của họ; đồng thời, ngăn chặn ý đồ của họ muốn làm trung
gian, gây thêm tình hình phức tạp”[10].
Như vậy, cuộc vận động, đấu tranh ngoại giao ở thời điểm đó có hai mục tiêu:
1). Đấu tranh ngoại giao phối hợp với quân sự, chính trị, chủ động tiến công địch,
giành thắng lợi; 2). Vận động các nước anh em, các lực lượng dân chủ, hòa bình thế
giới ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam.
Thực hiện mục tiêu “chọn
đúng thời cơ để mở đòn tiến công ngoại giao, kéo Mỹ vào bàn đàm phán”, nếu
như từ năm 1966 trở về trước, Bộ Ngoại giao Việt Nam DCCH thường xuyên tuyên bố
đòi Mỹ phải rút hết quân ra khỏi miền Nam và chấm dứt hoàn toàn mọi hành động
chống phá miền Bắc Việt Nam, thì tại Hội nghị Trung ương 13, Đảng LĐVN hé mở khả
năng sẽ đi vào đàm phán nếu Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện miền Bắc, không
gắn với việc đòi Mỹ rút quân khỏi miền Bắc như trước. Ngay trong tháng 1-1967,
Bộ Ngoại giao Việt Nam DCCH ra tuyên bố, một
mặt, khẳng định lập trường trước sau như một của nhân dân Việt Nam kiên quyết
chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do; mặt khác,
chỉ ra khả năng đàm phán nếu phía Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi
hành động chống phá Việt Nam. Tuy nhiên, thái độ của Mỹ thể hiện qua bức thư của
Tổng thống Mỹ L.Johnson[11] (8-2-1967) là thiếu thiện
chí, không chịu xuống thang chiến tranh, tiếp tục theo đuổi ý
đồ mở cuộc phản công chiến lược thứ ba vào mùa khô 1967-1968, tạo thắng lợi
quân sự để giải quyết vấn đề miền Nam theo ý chủ quan, đàm
phán với Việt Nam DCCH trên thế mạnh. Trong thực
tế, ngày 14-2-1967, Mỹ đã lập tức ném bom trở lại.
Về phía Việt Nam, những thắng lợi về mặt quân sự và chính trị đã làm cho sức mạnh cách mạng
Việt Nam tăng lên đáng kể, nhưng vẫn chưa có những đợt hoạt động, những cuộc tiến
công quy mô chiến lược đủ sức làm chuyển biến cục diện chiến tranh. Điều cần
thiết đối với cách mạng miền Nam lúc này là phải tổ chức được một đòn quyết định,
làm xoay chuyển cục diện chiến trường có lợi cho cách mạng, giáng một đòn vào ý
chí xâm lược của Mỹ, kéo
Mỹ xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc.
Tháng
5-1967, ngay sau khi cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của quân Mỹ kết
thúc, Bộ Chính trị đã họp dưới sự chủ tọa của Hồ Chí Minh, xem xét dự
thảo kế hoạch chiến lược Đông – Xuân 1967-1968. Tháng 6-1967, Hội nghị Bộ Chính
trị tiếp tục họp, bàn bạc kỹ dự thảo chiến lược. Hội nghị nhận định: “Những thắng
lợi của ta trong Đông – Xuân 1966-1967 đã tạo ra tình thế mới có lợi cho ta, bất
lợi cho địch”[12].
Và kế hoạch chiến lược Đông – Xuân 1966-1967 lập tức được khởi thảo, nhằm mục
đích tận dụng tình thế mới, nhân lúc đế quốc Mỹ đang đứng trước thế tiến lui
đều khó, lại phải tập trung vào cuộc vận động bầu cử Tổng thống Mỹ, đánh một đòn
quyết định tạo chuyển biến nhảy vọt cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, đưa sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ phát triển. Bộ Chính trị chủ
trương giành thắng lợi quyết định không phải “bằng cách đánh thông thường mà phải tìm
cách đánh khác để đập tan ý chí
tiếp tục chiến tranh của Mỹ,
làm cho Mỹ hiểu rằng không thể thắng được dân tộc Việt Nam bằng vũ khí và bom đạn”[13].
Quán
triệt tinh thần Nghị quyết tháng 6-1967 của Hội nghị Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham
mưu đã cử cán bộ tới các chiến trường, các mặt trận chỉ đạo thí điểm cách đánh
tiêu diệt gọn các đơn vị quân Mỹ. Đây được xem như một cuộc diễn tập nhằm
thăm dò khả năng quân sự trước một đối thủ mạnh, được “trang bị tận răng” như
quân đội Mỹ. Tháng 10-1967, Bộ Chính
trị họp bàn cụ thể hơn về chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968. Sau khi
cân nhắc, Bộ Chính trị quyết định một phương thức tiến công, một cách đánh mới
có hiệu lực cao: Bất ngờ và đồng loạt
đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam và toàn bộ ý định chiến lược
này được giữ bí mật nghiêm ngặt[14].
Tháng
12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt, do Hồ Chí Minh chủ trì,
chính thức thông qua kế hoạch chiến lược năm 1968. Tháng 1-1968, Hội nghị BCHTW Đảng LĐVN lần thứ 14 họp, thông qua Nghị
quyết tháng 12-1967 của Bộ Chính trị quyết định thực hiện Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định cho
sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Để thực hiện quyết tâm chiến lược đó,
cần “kết hợp tiến công quân sự với tiến công chính trị, thực
hành ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược và phối hợp với tiến công
ngoại giao”[15].
Nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động quốc tế và công tác ngoại giao lúc này là phải
“phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở
trong nước, tích cực phục vụ cho cuộc tổng
công kích và tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi”[16]. Đạt
mục tiêu trên, mặt trận ngoại giao cần phải có những phương pháp và hình thức
thích hợp để tiến công ngoại giao, nhằm làm cho phía Mỹ lúng túng, bị động, mâu
thuẫn, do dự, lừng chừng trong âm mưu kéo dài chiến tranh; đồng thời, “ra sức
tranh thủ sự ủng hộ quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước dân tộc chủ
nghĩa tích cực và của nhân dân thế giới”[17]; từ
đó, “mở đường cho địch đi vào thương
lượng theo hướng có lợi nhất cho ta”[18].
Phát biểu trong Hội nghị, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn lưu ý rằng, làm cho Mỹ tan rã
thực sự, “buộc nó phải đi đến ngồi với ta, thương lượng với ta”[19] chính
là chủ trương “biết thắng Mỹ” vừa với sức ta, mở ra một giai đoạn mới vừa đánh vừa đàm, phù hợp với truyền
thống quân sự Việt Nam.
II. Đẩy mạnh
các mũi vận động, đấu tranh ngoại giao kết hợp với tiến công chiến lược
Ngay
khi Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-1967) kết thúc, để thực hiện chủ trương vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh, Bộ
Chính trị Trung ương Đảng và Nhà nước Việt Nam DCCH tích cực đẩy mạnh các hoạt
động ngoại giao, nhằm làm cho các nước XHCN hiểu, đi đến ủng hộ sách lược
đánh – đàm của Việt Nam. Tuy nhiên, các nỗ lực của Việt Nam luôn gặp khó khăn
bởi bất đồng Xô – Trung. Khi Bộ Chính trị Đảng LĐVN
đưa ra sách lược "vừa đánh, vừa đàm", quan điểm của Trung Quốc và
Liên Xô có nhiều điểm trái ngược nhau. Trung Quốc khuyên Việt Nam từ
chối các cuộc đàm phán, “tiến hành cuộc chiến tranh du kích kéo dài, buộc người
Mỹ bị sa lầy, làm sói mòn sức mạnh quân sự Mỹ, ảnh hưởng đến uy tín, vị thế
trên chính trường quốc tế”[20].
Theo quan điểm của Trung Quốc, Việt Nam không nên vội
đàm phán, đàm phán với Mỹ lúc này là “nhẹ dạ đi theo Liên Xô”, bán rẻ miền Nam.
Để thuyết phục Trung Quốc,
tháng 4-1967, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã sang thăm và hội kiến với Chu Ân Lai,
trình bày quan điểm về kết hợp ba mặt đấu tranh chính trị, quân sự ngoại giao:
“Trên cơ
sở thắng lợi của đấu tranh quân sự, chính trị tiến hành đấu tranh ngoại giao
với thế chủ động, thế tiến công”[21].
Đáp lại, Chu Ân Lai cho rằng, hiện tại thời cơ chưa
chín muồi, nếu muốn đàm phán, “phải đặt điều kiện cao mới có lợi. (…). Tư
thế cao cũng không trở ngại đến vấn đề tiếp xúc”[22].
Tiếp đó, về việc Việt Nam mở mặt trận đấu tranh ngoại
giao ngồi đàm phán với Mỹ ở Paris sau khi Mỹ hạn chế ném bom miền Bắc
(31-3-1968) và sau Tổng tiến công Mậu Thân, Trung Quốc cho rằng: "Lúc này
Việt Nam chấp nhận đàm phán chưa phải là thời cơ và trên tư thế cao, Việt Nam
đã nhân nhượng một cách vội vã"[23]; "việc Mỹ chấm dứt
ném bom miền Bắc Việt Nam là một sự thỏa hiệp của Việt Nam với Mỹ"[24]. Trong cuộc hội đàm với
Đoàn đại biểu Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ Liên Xô trở về ghé qua
Trung Quốc (4-1968), Trung Quốc cực lực phản đối, thậm chí làm găng, doạ cắt
quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước. Đầu tháng 10-1968, Việt Nam đề nghị cử
đoàn đại biểu đến Trung Quốc bàn bạc, Chu Ân Lai phúc đáp Thủ tướng Phạm Văn
Đồng: “Do bận công tác trong nước trong tháng 10, những người phụ trách Đảng
chính phủ Trung Quốc không thể tiếp đoàn đại biểu Đảng, chính phủ Việt Nam”[25].
Trên thực tế trước, sau
và trong thời gian tổ chức Hội nghị toàn thể Trung ương 12 (khóa VIII),
Mao Trạch Đông đã tiếp Đoàn đại biểu Guinea, Ngoại trưởng Pakistan, Đoàn
đại biểu chính Đảng Albania, song cuộc gặp gỡ với Thủ tướng Phạm Văn
Đồng bị
đẩy lùi lại đến tháng 11-1968.
Ngày 7-11-1968, để tranh thủ sự ủng
hộ của các nhà lãnh đạo Trung Quốc đối với Hội nghị Paris sắp vào giai đoạn đàm
phán, Hồ Chí Minh cử một Đoàn đại biểu gồm những cán bộ cao cấp của
Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (có Thủ tướng Phạm
Văn Đồng cùng đi), sang thăm Trung Quốc. Trước khi Đoàn lên đường, Hồ
Chí Minh căn dặn Đoàn phải khẳng định tinh thần “quyết tâm đánh thắng Mỹ xâm lược”.
Ngày 7-11-1968, Mao Trạch Đông sau khi tiếp Đoàn, đã nói rằng Việt Nam
đánh giỏi, mà đàm phán cũng giỏi và khẳng định ủng hộ phương châm “vừa đánh, vừa
đàm” của Việt Nam, bởi lúc này diễn biến trên trường quốc tế và chiến trường miền
Nam Việt Nam đã hoàn toàn minh chứng cho tính đúng đắn quan điểm “đánh -đàm” của
Việt Nam.
Về phía Liên Xô, ngay từ năm
1965, Liên
Xô đã khuyến khích Việt Nam tiếp xúc với phía Mỹ để đi đến thỏa thuận, "bày tỏ mong muốn tích cực cho một giải pháp ở Việt
Nam và việc duy trì vĩ tuyến 17 như là một đường ranh giới"[26],
“chủ trương giải quyết vấn đề Việt Nam bằng
thương lượng trên những điều kiện thấp so với yêu cầu của ta và với sự trung
gian của Liên Xô”[27].
Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 2-1965, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.N. Kosygin đưa ra gợi ý "họp Hội nghị quốc tế
theo kiểu Hội nghị Geneve”[28],
song Việt Nam không đồng ý. Tháng 4-1965, dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao sang
thăm Liên Xô, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn một lần nữa “giải thích cho lãnh đạo Liên Xô
rằng, điều kiện chưa chín muồi để họp một Hội nghị như vậy”[29].
Cũng từ thời điểm này, Liên Xô chuyển sang truyền đạt ý kiến của Mỹ cho Việt Nam về đàm phán (những năm 1965-1968, 24 lần Liên Xô truyền đạt ý kiến về vấn
đề này[30]). Nhằm hỗ trợ cho các
đợt vận động, Liên Xô đã điều hòa lượng cung cấp hàng viện trợ cho Việt Nam[31].
Để tránh hiểu lầm, tranh thủ sự ủng hộ của
Liên Xô, nhất là đối với các loại vũ khí quân sự tối tân mà Việt Nam hết sức cần
thiết, trong
các cuộc hội đàm cấp cao (3-1967, 4-1968, 11- 1968), Việt Nam kiên trì giải
thích về sách lược đánh đàm, mềm dẻo, song cương quyết bảo vệ quan điểm. Trước
đường lối độc lập, tự chủ của Việt Nam và cùng với diễn biến thực tế của các mặt
chính trị, quân sự, ngoại giao ở miền Nam Việt Nam, cuối cùng Liên Xô đã thừa
nhận: “Thắng lợi của nhân dân Việt Nam chứng tỏ vai trò quyết định của Đảng Cộng
sản Việt Nam khi Đảng lãnh đạo, động viên quần chúng nhân dân, vũ trang cho họ
ý chí chiến đấu, biết đưa ra đường lối chính trị đúng đắn...”[32].
Cùng với việc thừa nhận đó, Liên Xô tích cực viện trợ cho Việt Nam, nhất là những vũ khí hiện đại như máy bay, xe tăng, xe bọc thép, tên lửa, pháo
phòng không, pháo binh, tên lửa “đất đối không”… Trong giai đoạn 1965-1968, số hàng viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam là 226.969 tấn[33]. Trong hai năm 1966-1967, Liên Xô là nước cung cấp chủ yếu viện trợ
quân sự cho Việt Nam, tính ra, “Liên Xô đã cung cấp 500 triệu rúp trang thiết bị
cho lực lượng quân sự Bắc Việt Nam (xấp xỉ 550,5 triệu USD)”[34]. Trong những năm 1969-1972, mức viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt
Nam đạt 143.793 tấn[35].
Đối với phía Mỹ, ngay
sau Hội nghị Trung ương 13 (1-1967), vận dụng sách lược ngoại giao linh hoạt, Việt Nam lập tức
triển khai thực hiện chủ trương “vừa đánh vừa đàm”. Ngày 28-1-1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên bố “có thể sẽ đàm
phán” với Mỹ, nếu phía Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện và chấm dứt mọi hành động chiến
tranh chống Việt Nam DCCH. Tuyên bố này có ý nghĩa quan
trọng, thể hiện thiện chí hòa bình của Việt Nam, giành thế chủ động về ngoại
giao, làm thất bại luận điệu “đàm phán không điều kiện” của Mỹ. Tuyên bố nhận
được sự hưởng ứng rộng rãi của dư luận thế giới. Nhiều nước, nhiều tổ chức, nhiều
cá nhân… đã lên tiếng đòi Mỹ chấm dứt ném bom. Để phát huy thế chủ động,
góp phần tăng sức ép với Mỹ, ngày 29-12-1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy
Trinh khẳng định dứt khoát “sẽ đàm phán” (thay cho “có thể sẽ đàm phán” ở tuyên
bố trước) với Mỹ, nếu Mỹ đáp ứng những điều
kiện của Việt Nam trong Tuyên bố ngày 28-1-1967. Đây là nỗ lực để chuẩn bị cho đòn tiến công chiến lược làm
xoay chuyển cục diện quân sự, chính trị đã được Việt Nam tính toán kỹ lưỡng.
Đêm ngày 29 rạng ngày 30 -1-1968 (tức là
đêm giao thừa theo lịch miền Nam), cả miền Nam rung chuyển bởi đòn tiến công
quân sự mãnh liệt và bất ngờ. Sự kiện “Tết” đã khiến nước Mỹ bàng hoàng sửng sốt.
Thắng lợi
của Tổng tiến công Mậu Thân đã buộc Tổng thống Mỹ L.Johnson, vào đêm 31-3-1968, chẳng những đã phải công
khai tuyên bố: Mỹ đơn phương chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc (từ vĩ tuyến
20 trở ra), sẵn sàng cử đại diện đàm phán với chính phủ Việt Nam DCCH, mà hơn
thế, còn quyết định rút dần quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam khi chưa một mục
tiêu nào của cuộc chiến tranh này được thực hiện. Quyết định ngày 31-3-1968 của
Tổng thống Mỹ L.Johnson đã mở ra "một
chương rất nhiều ý nghĩa trong lịch sử can thiệp của Hoa Kỳ: Cuộc chiến tranh
Việt Nam đã đi đến hồi kết thúc"[36]. Quả thực, cuộc
chiến tranh ở Việt Nam đã trở thành nỗi bất hạnh đối với L.Johnson. Việc trút bỏ gánh nặng
chiến tranh xuống vai chính quyền và quân đội Sài Gòn - một lực lượng vốn đã bại
trận trước khi quân Mỹ buộc phải tham chiến và ngày càng phụ thuộc vào sự hiện
diện của quân Mỹ, thì về thực chất, đã làm cho Mỹ phải phụ thuộc vào chính kẻ
đã và đang phụ thuộc vào mình. Đây là đảm bảo quan trọng cho thắng lợi cuối
cùng của nhân dân Việt Nam.
Tuyên bố của Tổng thống Mỹ L.Johnson đánh dấu những thay đổi lớn trong chiến lược của Hoa Kỳ. Tổng thống L.Johnson đã phải chấp nhận đơn phương chấm dứt ném bom không điều kiện miền Bắc
Việt Nam, trừ phía bắc của phi quân sự, xuống thang chiến tranh và chấp nhận
thương lượng. Tuy nhiên, phía Hoa Kỳ
chưa đáp ứng hoàn toàn những điều kiện do Việt Nam DCCH nêu ra. Về phía Việt
Nam, đàm phán ngay là quá sớm, bác bỏ đề nghị thương lượng của Johnson sẽ không
tranh thủ được dư luận của thế giới và dư luận Mỹ. Do vậy, trước mắt, về ngoại giao, Bộ Chính trị chủ trương, “cần liên
tục tấn công địch một cách sắc bén, nhằm phục vụ việc giành thắng lợi lớn hơn
nữa về quân sự, chính trị”[37].
Trên tinh thần đó, Đảng, chính phủ Việt
Nam DCCH, một mặt, “sẵn sàng cử đại diện
của mình tiếp xúc với đại diện của Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt
không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa, để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện”[38];
mặt khác, “tiếp tục phát triển tiến
công toàn diện, giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn nữa (…), đẩy địch vào thế
thất bại liên tiếp, ngày càng suy yếu, tan rã, không sao gượng dậy được nhằm đi
tới giành thắng lợi quyết định”[39].
Đây là chủ trương sách lược mềm dẻo đập tan âm mưu “đẩy quả bóng sang sân” phía
Việt Nam, đánh lạc hướng dư luận của Mỹ, mà Mỹ tính toán là sẽ tạo điều kiện
cho Mỹ tự do hành động sau một thời gian ngắn ngừng ném bom, mà không bị dư luận
phản đối. Mỹ đã bị bất ngờ trước tốc độ đáp ứng của Việt Nam DCCH – thể hiện
qua việc giải quyết một cách lúng túng xung quanh vấn đề chủ yếu thuộc về thủ tục
là triệu tập hội nghị ở địa điểm nào[40].
Cuối cùng hai bên đồng ý lấy Paris – Thủ đô Cộng hòa Pháp làm nơi tổ chức Hội
nghị, nhưng đến hội nghị, “Mỹ giữ lập trường cứng rắn ngay từ đầu”[41].
Thực tế cũng cho thấy, Mỹ ngồi vào bàn đàm phán vẫn trên tư thế của kẻ mạnh, dồn
mọi nỗ lực, mở hàng loạt các cuộc hành quân quy mô lớn, áp dụng nhiều
biện pháp, sử dụng ồ
ạt bom đạn và chất độc… hòng giành thêm những lợi thế mới[42],
ra sức tuyên truyền trên trường quốc tế về thắng lợi quân sự của Mỹ và đồng
minh ở Việt Nam sau Tết Mậu Thân; đồng thời, đặt điều kiện cho Việt Nam DCCH về
việc chấm dứt ném bom hoàn toàn miền Bắc[43].
Trước tình hình đó, tháng 5 và tháng 5-1968, Bộ Chính trị quyết định bồi tiếp
đòn tiến công mới, giáng mạnh vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, gây cho Mỹ những
tổn thất nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh, làm cho đối phương “thất
bại trên chiến trường, thất bại ở các thành thị lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ”[44].
Như vậy, tình hình trên cho thấy, sau sự kiện Tết Mậu Thân, diễn biến chiến trường
quyết định ưu thế trên bàn Hội nghị và Việt Nam dồn hết tâm lực, chấp nhận hy
sinh, đẩy mạnh các hoạt động tiến công, nhằm khẳng định tư thế đàm phán, buộc Mỹ
phải đàm phán theo yêu cầu của mình. Điều này không chỉ được chứng nghiệm trong
thời điểm có tính bước ngoặt lớn – năm 1968, mà sau đó, còn tái diễn trong năm
1972 để đi tới Hiệp định Paris tháng 1-1973.
III. Lời kết
Tết Mậu Thân 1968 là
sự kiện tạo nên bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh kéo dài suốt 21 năm
tại Việt Nam (1954-1975). Trên chặng đường 21 năm, Mỹ đã thi hành nhiều thủ đoạn
và biện pháp, thay đổi nhiều chiến lược chiến tranh, bỏ ra nhiều tiền của và
công sức hòng khuất phục đối phương. Cũng trên chặng đường 21 năm ấy, Việt Nam
đã trải qua nhiều thử thách khốc liệt của chiến tranh, đã chịu nhiều tổn thất,
hy sinh, tự tìm đường đánh Mỹ. Đó là cả quá trình lâu dài, gian khổ, đầy sáng tạo
và rất mưu lược của dân tộc Việt Nam. Tết Mậu Thân với hiệu quả chiến lược của
nó đã là một thành công lớn trong quá trình này.
Trong điều kiện tương
quan lực lượng quân sự lúc bấy giờ vẫn nghiêng về phía đối phương, song, nắm vững
chiều hướng vận động của tình tình, để chớp lấy thời cơ có lợi, xoay chuyển cục
diện chiến tranh, Đảng LĐVN, chính phủ Việt Nam DCCH chủ trương đánh vào ý chí xâm
lược của đối phương bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh cách mạng miền Nam,
bằng việc kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính
trị với đấu tranh ngoại giao, đánh vào yết hầu, đánh vào tim óc địch, vào thời
điểm nhạy cảm nhất trong đời sống chính trị nước Mỹ - năm vận động bầu cử Tổng
thống nhiệm kỳ mới. Vì thế, hiệu quả chiến lược rộng lớn của Tết Mậu Thân không
do một nhân tố đơn lẻ nào tạo ra, mà là kết quả tổng hợp của một loạt nhân tố
quân sự -chính trị - tâm lý – ngoại giao; trong đó, cuộc đấu tranh ngoại giao
có vai trò quan trọng dựa vào chính nghĩa
và sức mạnh của dân tộc, phát huy thắng lợi trên chiến trường. Từ thời điểm này, hai mặt đánh – đàm trên nền tảng thắng lợi quân sự
thúc đẩy thắng lợi ngoại giao và ngược lại trong đấu tranh cách mạng ở miền Nam
được kết hợp hết sức chặt chẽ cả trong nước lẫn trên trường quốc tế, đan quyện
một cách khéo léo, linh hoạt, dựa trên những phân tích, phán đoán, nhận định
tình hình một cách kịp thời, khách quan, khoa học, nhằm mang lại những hiệu quả
to lớn, tạo ra những bước ngoặt mang tính đột phá cho mục tiêu nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở
thế có lợi nhất. Cho dù sau “Tết”, cuộc
chiến tranh vẫn còn kéo dài và diễn ra ác liệt, thì với việc buộc phải ngồi vào
bàn đàm phán qua quyết định ngày 31-3-1968 của Tổng thống L.Johnson, thực chất số phận cuộc chiến giữa Mỹ và Việt Nam đã được định đoạt.
Download toàn văn bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
[1]Tháng 5-1965, Oasinhtơn tiến hành cuộc vận động hòa bình
mật danh “Hoa tháng Năm”, tạm ngừng ném bom miền Bắc trong 6 ngày và tìm cách
gửi tới Chính phủ VNDCCH một thông điệp. Đầu năm 1966, Mỹ mở chiến dịch Pinta,
đưa đề nghị hòa bình 14 điểm, vận động 113 chính phủ, cử phái viên tới 40 nước,
lên tiếng ở Liên Hợp Quốc để vận động ủng hộ lập trường của Mỹ, ngừng đánh phá
miền Bắc 37 ngày. Nửa cuối năm 1966 diễn ra cuộc vận động ngoại giao mang tên
Mêrigôn (Cúc vạn thọ). Hai ngày 24 và 25-10-1966, tại Manila (Philíppin), Hội
nghị 7 nước châu Á Thái Bình Dương do Mỹ chủ trì đã ra bản tuyên bố trong đó
nói đến việc rút quân của các bên tham chiến ra khỏi miền Nam Việt Nam trong
vòng sáu tháng sau khi miền Bắc Việt Nam rút quân.
[2] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tập
28, tr. 89.
[9] Tính đến năm 1967, viện trợ của các nước cho Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa khoảng 1,5 tỷ rúp (hơn 1,5 tỷ đô la); trong đó Liên Xô viện trợ
36,8% (547,3 triệu rúp tương đương 608,1 triệu đô la). Còn phía Trung Quốc, từ
năm 1955 đến 1965, Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam hơn nửa tỷ đô la và đến năm
1967, Trung Quốc vẫn là nguồn viện trợ chính cho Việt Nam.
[11]Tổng thống L.Johnson đưa ra điều
kiện như đòi miền Bắc phải đảm bảo trước việc chấm dứt tăng viện cho miền Nam.
[14] Phương
thức tiến công này không
đưa ra bàn bạc ở Trung ương, trong Bộ Tổng tham mưu, chỉ ai được phân công làm
kế hoạch mới biết về phương thức tiến công mới này.
[20]Qiang
Zhai, China and the Vietnam Wars, 1950-1975, Chapel Hill, NC: University
of North Carolina Press, 2000, tr. 157.
[21] Hồ sơ quan hệ Việt - Trung trong giai đoạn chống Mỹ, cứu
nước (3-1954 đến tháng 8-1973), Lưu tại
Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 111.
[22] Hồ sơ quan hệ Việt - Trung trong giai
đoạn chống Mỹ, cứu nước (3-1954 đến tháng 8-1973), TLđd, tr. 127.
[23]Viện Quan
hệ quốc tế - Bộ Ngoại giao, Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1990, tr. 41.
[25] Hô sơ quan hệ Việt - Trung trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước
(3-1954 đến tháng 8-1973), TLđd, tr. 145.
[26]Gaiđuk I.V, Liên bang Xô-viết và cuộc chiến tranh Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, tr. 118.
[27] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước
(7-1954 đến tháng 4-1975), Lưu tại Viện Hồ
Chí Minh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 40.
[28] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước
(7-1954 đến tháng 4-1975), TLđd, tr. 42
[29] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước
(7-1954 đến tháng 4-1975), TLđd, tr. 42.
[30] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước
(7-1954 đến tháng 4-1975), TLđd, tr. 41.
[31] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước
(7-1954 đến tháng 4-1975), TLđd, tr. 43.
[32] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước
(7-1954 đến tháng 4-1975), TL đd, tr. 50.
[34] Gaiđuk. V.I (1998), Liên bang Xô-viết và chiến
tranh Việt Nam , Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, tr. 126.
[36] Tài liệu mật Lầu
Năm Góc, Thư viện Trung ương quân đội sao lục, lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam, ký số hiệu: VL.781-82, tr.569.
[38] Tuyên bố của Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hóa, ngày 3-4-1968, (Việt Nam những sự kiện
1954-1975, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1976, Tập 2, tr.82.
[40] Pito Apulo, Nước Mỹ và Đông Dương từ Ruzoven
đến Nixon, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1995, tr. 162.
[41]
G.C.
Herinh, Cuộc chiến tranh dài ngày nhất nước Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1998, tr. 269.
[42] G.A. Amato, Lời phán
quyết cuối cùng về Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1982, tr. 229.
[43] Mỹ đòi Việt Nam DCCH
phải: Công nhận đại diện chính quyền Sài Gòn tại Paris; chấm dứt việc đưa
người, vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam; ngừng ngay các cuộc tiến công
vào các thành phố lớn ở miền Nam Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!