PGS.TS. Hồ Khang
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
Trong chiến
tranh, quan hệ giữa quân sự và ngoại giao luôn là mối quan hệ chặt chẽ, quy định
và chi phối lẫn nhau. Quan hệ giữa giành thắng lợi quyết định trên chiến trường
và củng cố, mở rộng thắng lợi đó bằng hoạt động ngoại giao thể hiện đậm nét
trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước qua thế đánh- đàm sau thắng lợi
của chiến dịch phản công Đường 9- Nam Lào (1971). Thắng lợi này đã đã thúc đẩy
đấu tranh ngoại giao phát triển lên những bước mới, phát huy hiệu quả tối ưu
trên các bình diện khác nhau của mặt trận ngoại giao và quân sự.
1. Hình thành thế vừa đánh, vừa đàm
Trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, gắn kết chặt chẽ hai mặt đấu tranh
quân sự - đấu tranh ngoại giao đã trở thành truyền thống, được nâng lên ở tầm
nghệ thuật – nghệ thuật của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự kiên
cường với đấu tranh ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt; lấy thắng lợi quân sự thúc đẩy
đấu tranh ngoại giao, sử dụng đấu tranh ngoại giao để củng cố, mở rộng, nhân
lên thắng lợi quân sự. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nghệ thuật kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại
giao, tạo thế đánh, đàm thực sự là một nét độc đáo, in đậm dấu ấn vào
kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Năm 1965, khi đưa quân
trực tiếp xâm lược miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ
nhất, Mỹ đã tiến hành nhiều cuộc vận động ngoại giao, gọi là để giải quyết vấn
đề Việt Nam, song lại đòi VNDCCH thương lượng không điều
kiện (!). Lúc này, Đảng
LĐVN nhấn mạnh hai nhiệm vụ quan trọng hàng đầu: 1- Quyết tâm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược; 2- Đập lại mọi luận điệu hoà bình giả hiệu, đòi thương lượng không điều kiện
của Mỹ. Bên cạnh đó, Bộ
thống soái tối cao Việt Nam cũng đã tính đến việc
đưa Mỹ vào cục diện vừa đánh, vừa đàm và việc chọn đúng thời điểm là cả một vấn
đề nghệ thuật. Quá trình đó diễn ra như sau:
Trải qua hai năm (1965-1966) ráo riết tăng cường lực lượng và đẩy mạnh hoạt động
quân sự, “nhằm chuyển biến hẳn cục diện trên chiến trường, giành lại thế chủ
động”[1], đối
phương đã vấp phải những thất bại to lớn. Trên thế thắng, Việt Nam đã “đánh bại cuộc phản công chiến lược
mùa khô lần thứ nhất; liên tục tấn công để mở rộng thắng lợi trong mùa
mưa; bước đầu đánh bại cuộc "phản công chiến lược" mùa khô thứ hai;
đánh bại chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc trên âm mưu cơ bản”[2]. Khẳng định về ý nghĩa, giá trị của những thắng lợi mang tính chiến lược đó,
Đảng LĐVN
nêu rõ: “Thắng lợi có tầm quan trọng rất lớn về chính trị
và quân sự, về chiến lược và chiến thuật. Đó là thắng lợi đối với hiệp đầu của
chiến lược chiến tranh cục bộ”[3]; những thắng lợi này đã khiến Mỹ “bị một đòn phủ đầu choáng váng hết sức
bất ngờ”[4], đẩy Mỹ vào thế bị động và cùng với việc trên thế giới, “Mỹ bị cô lập chưa
từng thấy, cả những đồng minh gần gũi của Mỹ cũng không ủng hộ chính sách chiến
tranh xâm lược Việt Nam”[5], thì đây chính là những tiền đề cơ bản, vững chắc, để toàn quân, toàn dân Việt Nam bước sang năm 1967 một cách vững tin, chuẩn bị cho những
phát triển mới của cuộc kháng chiến.
Trong tình
hình đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-1967) – Hội nghị bàn về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến
công địch, quyết định đưa chiến tranh cách mạng miền Nam sang một giai đoạn
mới - giai đoạn “ra sức đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở
miền Nam”[6]. Trên cơ sở đó, Hội nghị xác định: “Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở
miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở
cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao”[7] và “đi đôi với đấu tranh quân sự và chính
trị ở miền Nam, ta cần tiến công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với
hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa”[8]. Như vậy, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã chọn đúng thời cơ để mở đòn tiến công ngoại giao, kéo Mỹ vào bàn đàm
phán, khi đang ở thế thắng. Bắt đầu từ Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-1967), Đảng LĐVN đã
đưa ngoại giao lên thành một mặt trận với nguyên tắc “chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta
đã giành được trên chiến trường”[9]. Cũng từ thời điểm này, hai mặt đánh – đàm (trên nền tảng thắng lợi
quân sự thúc đẩy thắng lợi ngoại giao và ngược lại) trong đấu tranh cách mạng ở
miền Nam được kết hợp hết sức chặt chẽ cả trong nước lẫn trên trường quốc tế,
đan quyện một cách khéo léo, linh hoạt, dựa trên những phân tích, phán đoán, nhận
định tình hình một cách kịp thời, khách quan, khoa học, mang lại những hiệu quả
to lớn, tạo ra những bước ngoặt mang tính đột phá để có thể nhanh chóng kết thúc một
cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở một nước nhỏ, xa xôi, nhưng lại là nơi hội tụ
những mâu thuẫn và xung đột mang tính thời đại, giữa tiến bộ và phản tiến bộ,
giữa hòa bình và chiến tranh; trở thành tiêu điểm chú ý và thức tỉnh lương tri thời
đại, lương tri loài người.
2. Chiến thắng Đường 9- Nam Lào và cục diện của
cuộc “Hòa đàm thế kỷ”
Lên làm Tổng
thống Mỹ (đầu năm 1969) trong điều kiện quân viễn chinh Mỹ và quân một số nước
đồng minh của Mỹ phải rút dần về nước để tiếp tục theo đuổi và cứu vãn cuộc chiến
tranh ở Việt Nam, R. Nixon thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền
Nam, lấy quân đội Sài Gòn làm nòng cốt dưới sự hỗ trợ của hỏa lực Mỹ, cố vấn Mỹ
và hậu cần Mỹ. Đây đồng thời cũng được coi là “công thức chiến thắng mới” cho
chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, trong các cuộc hành quân lớn, quân Mỹ vẫn tham
gia trực tiếp, thậm chí đóng một vai trò quan trọng bên cạnh quân đội Sài Gòn. Trên
lĩnh vực đối ngoại, chính quyền Mỹ thực hiện chính sách “tiến công hòa bình” với
quy mô chưa từng có trong hoạt động ngoại giao của nước Mỹ sau Chiến tranh thế
giới thứ hai. Mục đích của chính sách ngoại giao này là lôi kéo sự tham gia của
các nước Tây Âu, Bắc Âu, châu Phi, châu Á, một số nước XHCN, các nước Không
liên kết… làm trung gian trong vấn đề Việt Nam, bịt mắt dư luận thế giới và
nhân dân Mỹ, gây chia rẽ giữa các nước với Việt Nam. Với chiến lược đó, Mỹ liên
tục giằng dai trên bàn Hội nghị Paris, gây nên những bế tắc về ngoại giao trong
suốt những năm 1968-1970.
Đến
đầu năm 1971, do phản ứng dữ dội từ dư luận trong nước và từ chính Quốc hội Mỹ[10], trước khi rút quân Mỹ ra khỏi các cuộc hành quân ngoài
biên giới miền Nam Việt Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn quyết định mở ba cuộc
hành quân lớn[11] ở bên kia biên giới Việt-Lào. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 có quy mô lớn nhất được Tổng thống R. Nixon đặt vào đó khá nhiều tham vọng: Thứ nhất, kiểm chứng khả năng tác chiến độc lập của quân đội Sài
Gòn, qua đó kiểm nghiệm kết quả của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” sau
hơn hai năm thực hiện; thứ hai, hủy diệt
tuyến đường vận tải huyết mạch – đường mòn Hồ Chí Minh với hy vọng nếu “không
còn đường mòn Hồ Chí Minh, hoặc bị gián đoạn chỉ trong một mùa khô, khả năng mở
các cuộc tiến công lớn của Hà Nội ở miền Nam (và Campuchia) sẽ giảm đi một cách
đáng kể nếu không phải là bị loại trừ trong một tương lai vô hạn định”[12]; thứ ba, chuyển
đến cử tri Mỹ thông điệp về tính khả quan của chiến
tranh Việt Nam khi thời hạn bầu cử Tổng thống Mỹ (năm 1972) đang đến gần; thứ tư, làm suy yếu cuộc kháng
chiến chống Mỹ của nhân dân ba nước Đông Dương, tạo thế mạnh trên chiến trường
và thương lượng trên thế mạnh, ép ta nhân nhượng trên bàn đàm phán Hội nghị
Paris, “buộc ta phải chấp nhận một giải pháp chính trị có lợi cho Mỹ”[13]. Như vậy, cuộc
hành quân Lam Sơn 719 đầu năm 1971 là toan tính lớn và kỳ vọng lớn của
cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn, một nỗ lực
cứu vớt sự thảm bại đã lộ rõ của “Việt Nam hóa chiến tranh”. Thành, bại của cuộc hành quân Lam Sơn 719 chắc chắn sẽ
kéo theo rất nhiều hệ lụy.
Sớm nhận rõ
âm mưu của địch, cuối năm 1970, Bộ Chính trị hạ quyết tâm: “Ta phải đánh cho
quân Mỹ bị thua đau hơn nữa, đánh cho ngụy quân, ngụy quyền phải sụp đổ”[14]. Bộ Chính trị cũng
xác định phương hướng tiến công của đối phương trong mùa khô
1970 - 1971 là hành lang chiến lược Trung, Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia, chỉ rõ
trong trường hợp Mỹ và quân đội Sài Gòn đánh ra Đường 9 - đó
là thời cơ để thực hiện chiến dịch phản công, tiêu diệt đối phương,
tạo ra sự thay đổi trong cán cân lực lượng trên chiến trường có lợi cho cách
mạng, tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị
Paris và bên ngoài Hội nghị.
Chiến
dịch phản công Đường 9- Nam Lào bắt đầu và kết thúc trong vòng hơn 50 ngày đêm[15]. Lúc này, cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán Hội nghị
Paris đang ở giai đoạn thứ hai[16] trong thế đàm phán giằng co. Tin tức từ chiến trường
liên tục dội đến bàn đàm phán. Đến đầu tháng 3-1971, VNDCCH dồn dập đón tin thắng lợi[17]. Cuộc hành quân tràn trề hi vọng của Mỹ biến thành
“cuộc hỗn loạn Lam Sơn 719” và sự tổn
thất to lớn của quân đội Sài Gòn[18] đã đặt dấu chấm hết cho nỗ lực xây dựng “công thức
chiến thắng” của chính quyền Mỹ. Henry Kissinger đã phải cay đắng thốt lên:
“Liệu Nam Việt Nam có thực sự hiểu cái mà chúng ta đang cố gắng giành lấy
không?”[19].
Thất bại của cuộc hành quân Lam Sơn 719 trở
thành nỗi ám ảnh kinh hoàng không chỉ của quân đội Sài Gòn, mà còn của cả chính
quyền Mỹ - điểm tựa và người bảo hộ cho họ, đã cho thấy “quân đội Việt Nam cộng
hòa là một quân đội mong manh một cách tuyệt vọng”[20].
Và thất bại nặng nề của quân đội Sài Gòn dưới sự yểm trợ hùng hậu của hỏa lực
Mỹ, phương tiện chiến tranh Mỹ, cố vấn Mỹ “đã làm rung chuyển nước Mỹ, gây ra
cho chúng những khó khăn rất lớn về nhiều mặt”[21];
tạo ra “khả năng kéo Mỹ xuống nữa để thắng một bước căn bản tiến lên giành
thắng lợi hoàn toàn cho cuộc cách mạng miền Nam”[22].
Muốn kéo Mỹ xuống, “phải triển khai cuộc đấu tranh trên ba mặt trận quân sự,
chính trị, ngoại giao; dùng chính trị, ngoại giao kết hợp với quân sự để kéo Mỹ
xuống; kéo Mỹ xuống để quân sự đánh to thắng lớn thúc đẩy phong trào chính trị
trong nước Mỹ làm áp lực mạnh hơn buộc chính
quyền Mỹ phải từ bỏ xâm lược, chấm dứt chiến tranh”[23].
Thực hiện chủ trương trên, để dồn đối phương vào thế
khó khăn hơn, vừa có thể chủ động tạo và đón thời cơ kéo Mỹ đi vào quỹ đạo đàm
phán một cách thực
chất[24], Việt Nam mở
đợt tấn công ngoại giao. Ngày 26-6-1971, Cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy
gặp riêng H. Kissinger. Bộ trưởng Xuân Thủy đưa ra Sáng kiến hòa bình 9 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa[25];
tuy nhiên, phía Mỹ vẫn làm ngơ trước những đề nghị thiện chí và thấu tình,
đạt lý đó. Trước tình hình đó, ngày 10-7-1971, Lê Duẩn
đã điện cho Bộ trưởng Xuân Thủy và Cố vấn Lê Đức Thọ, nhấn mạnh “vấn đề quan trọng
hiện nay là làm thế nào ba mặt đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao phối hợp
nhịp nhàng, ăn khớp với nhau để có thể nắm vững thời cơ và giành được thắng lợi
lớn nhất”[26]. Cùng ngày, Lê Duẩn
điện riêng cho Bộ trưởng Ngoại giao CPCMLTCHMNVN và VNDCCH chỉ rõ hai yêu cầu
trước mắt trong cuộc đấu tranh ngoại giao: 1). Gây một sức ép mạnh trong nước Mỹ,
ngay cả trong Thượng và Hạ nghị viện Mỹ để buộc Nixon phải đi đến có chủ trương
dứt khoát rút quân ra khỏi miền Nam và phải tuyên bố thời hạn rút quân; 2). Phải
kéo chính quyền Sài Gòn xuống một bước, buộc Mỹ phải đưa ra một chính quyền có
thể nói chuyện với VNDCCH[27].
Phát huy thắng lợi của chiến dịch phản công Đường 9 – Nam Lào và những
thắng lợi quân sự trong nửa cuối năm 1971, từ tháng 7 cho đến
tháng 12-1971, Quân giải phóng liên tục mở các đợt tấn công ngoại giao quyết liệt
hơn, nhằm đưa cuộc đàm phán đi vào thực chất, phản ánh đúng những diễn biến
quân sự trên chiến trường đang có lợi; đồng thời, kiên quyết làm thất bại âm
mưu của Mỹ coi nhẹ, hạ thấp vai trò của đàm phán Paris. Việt Nam liên tục đưa
ra những sáng kiến mới, tập trung vào các vấn đề như rút quân, thả tù binh, chấm
dứt ủng hộ chính quyền Thiệu – Kỳ - Khiêm, bồi thường chiến tranh, thực hiện ngừng
bắn sau khi ký kết Hiệp định, thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình… Có một điểm mới là những vấn đề nêu trên được thu hẹp trong phạm vi miền Nam, nhằm tạo
ra những bước đột phá mới trong đàm phán và điều đáng nói là mỗi sáng kiến đưa ra đều kèm theo
các giải pháp thực hiện[28]. Trả lời các sáng kiến của
VNDCCH, mặc dù
các đại biểu phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn chưa hoàn toàn thể hiện thái độ thiện chí, song, đâu
đó đã lộ rõ ý muốn
sớm giải quyết vấn đề, tỏ ra có một số điểm mềm dẻo: Không
nhắc đến vấn đề quân miền Bắc rút khỏi miền Nam, đồng ý ngừng bắn sau khi có Hiệp
định, giải quyết vấn đề tù binh đồng thời với việc rút quân Mỹ và hé lộ
sẽ có viện trợ không hoàn lại đáng kể sau chiến tranh. Nhìn chung, trong năm bản lề 1971, VNDCCH “chủ yếu xoáy vào hai điểm
chính: Vấn đề rút quân Mỹ và vấn đề thay thế chế độ
Thiệu”[29]. Như vậy, kết hợp chặt chẽ giữa đánh - đàm; nắm vững quan hệ giữa thắng
lợi quân sự với thắng lợi trên bàn đàm phán, mềm dẻo trong điều chỉnh các điều
kiện, yêu cầu đàm phán, sau thắng lợi mang tính chiến lược của chiến dịch phản
công Đường 9 – Nam Lào năm 1971, các hoạt động ngoại giao của chính phủ Việt
Nam đã thúc đẩy cuộc “Hòa đàm thế kỷ” hầu như không tiến triển, sau rất nhiều bế
tắc có những diễn biến mới, bước vào giai đoạn đàm phán thực chất.
3. Chiến thắng Đường 9- Nam Lào
và cuộc vận động ngoại giao tranh thủ dư luận thế giới
Khi mở Mặt trận
ngoại giao phục vụ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong bối cảnh
quốc tế phức tạp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho ngành đối ngoại: “Ngoại
giao của ta là cốt tranh thủ nhiều người ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước”[30]. Từ khi cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đang có bước leo thang mới,
Trung ương Đảng LĐVN đã chủ trương: “Tranh thủ rộng rãi hơn nữa sự đồng
tình ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân
dân ta và qua đó góp phần phát triển hành động chung của nhân dân thế giới chống
đế quốc Mỹ xâm lược và ủng hộ Việt Nam”[31]. Trên tinh thần đó, nhằm
tranh thủ tối đa dư luận quốc tế, cô lập Mỹ và
chính quyền Sài Gòn, bên cạnh cuộc đấu tranh trực
tiếp với Mỹ trên bàn đàm phán, VNDCCH còn
tiến hành những hoạt động đối ngoại phong phú bên ngoài Hội nghị,
đặt trọng tâm vào việc tố cáo tội ác của Mỹ, âm mưu của
Mỹ - Thiệu kéo dài chiến tranh, cũng như chỉ rõ những thất bại của Mỹ trên chiến
trường Đông Dương mà đối phương luôn luôn muốn che dấu.
Khi Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện cuộc
hành quân Lam Sơn 719, với quyết tâm chiến lược “kiên quyết đập tan bước
phiêu lưu quân sự mới của đế quốc Mỹ và tay sai, giành toàn thắng cho chiến dịch
X (Đường 9 - Nam Lào)”[32], với sự tin tưởng ở thắng lợi tất
yếu, nhìn thấy trước sự thảm bại không tránh khỏi của quân đội Sài Gòn, chỉ vài
ngày sau khi chiến dịch phản công Đường 9- Nam Lào bắt đầu, ngày 9-2-1971, Bộ Chính trị chỉ thị: “Cần gây nên một phong trào mạnh mẽ chống
hành động phiêu lưu quân sự của Mỹ và Thiệu - Kỳ đưa quân đi đánh ở Lào, ở
Campuchia kết hợp các khẩu hiệu đòi hoà bình dân chủ và dân sinh, đòi Mỹ rút
quân”[33].
Quán triệt quan điểm đó, VNDCCH sẵn sàng cho một cuộc vận động quy mô lớn vạch
rõ âm mưu kéo dài chiến tranh của Mỹ, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của dư luận
quốc tế, đặc biệt là nhân dân Mỹ - những người đã chán ngấy cuộc chiến tranh
bẩn thỉu đang được tiến hành một cách vô vọng ở miền Nam Việt Nam; những người
đã quá mệt mỏi trước những mất mát, hy sinh vô nghĩa của con em họ tại vùng đất
xa xôi, chỉ hứa hẹn một tương lai mịt mù. Điều vô cùng thuận lợi là dù bộ máy tuyên
truyền của Sài Gòn đưa tin rùm beng về thắng lợi của Quân lực Việt
Nam cộng hòa trong cuộc hành
quân Lam Sơn 719, nhưng các ký
giả mặt trận Anh, Mỹ theo sát các cuộc hành quân của Quân đội Sài Gòn đã truyền tải đầy đủ sự thật về thất
bại của Quân đội Việt Nam cộng hòa – một cuộc “tháo chạy
trong hoảng loạn”. Vô số những dòng tin như: “Quân lính Nam Việt
Nam khiếp sợ, phải đánh lẫn nhau giành chỗ khi máy bay đáp xuống để nhặt bọn bị
thương”[34]; hay: “Số
quân tinh nhuệ Sài Gòn quá
tuyệt vọng không còn cách nào khác là liều mạng bám vào càng máy bay lên thẳng để
dời khỏi trận địa. Nhiều nhân viên phi hành Mỹ phải lấy dây cột chặt người vào
ghế để khỏi bị đẩy ra khỏi máy bay. Một số phi công khác phải mang theo dùi cui
để hễ tên lính Sài Gòn nào trèo lên máy bay thì quật liền…”[35];
hoặc: “Thiệt hại thật khủng khiếp. Phía Mỹ và Nam Việt Nam ước tính thương vong
gần 50% tổng số lực lượng tham gia cuộc hành quân”[36]…
đã thực sự bóc trần những thất bại mà chính quyền Mỹ đang cố công che đậy, làm bùng
lên một làn sóng phẫn nộ trong lòng nước Mỹ về những hứa hẹn thắng lợi giả tạo của
“Việt Nam hóa chiến tranh” mà Tổng thống R.Nixon vẫn luôn tô vẽ để trấn an người
Mỹ. Nhà sử học Mỹ Giô-dép A. Am-tơ cũng cung cấp thêm thông tin: “Cuộc xâm chiếm
là một thất bại và cuộc rút lui của quân đội Việt Nam cộng hòa là một cuộc tháo
chạy... Điều nhục nhã này đã được hàng triệu người Mỹ xem trên màn ảnh truyền
hình. Dù với sự yểm trợ ào ạt của không quân và sự chỉ huy của Lầu Năm góc, đội
quân đó đã thất bại thảm hại”[37]. Chính
Tổng thống R. Nixon cũng phải thừa nhận rằng, tin tức báo chí, truyền hình về
cuộc rút lui đã làm tinh thần ở miền Nam Việt Nam rệu rã, còn ở Mỹ dấy lên những
nghi ngờ về khả năng leo thang và những tin tức đó “đã làm giảm lòng tin vào thắng
lợi của Việt Nam hóa và triển vọng chấm dứt chiến tranh”[38],
khiến “lương tâm người Mỹ nổi giận”.
Nhân cơ hội
này, hai Đoàn Ngoại giao Việt Nam (CPCMLTCHMNVN và VNDCCH) đã họp báo, vạch rõ
thực chất của cái gọi là “Việt Nam hóa chiến tranh” và bày tỏ lòng công phẫn
trước số phận của binh lính Sài Gòn bị ném vào chỗ chết để Tổng thống R.Nixon
thể nghiệm chiến lược của ông ta. Nhằm vận động dư luận ủng hộ lập trường của Việt Nam,
các Đoàn Ngoại giao VNDCCH đã đi
thăm các nước châu Âu: Anh, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch, Italia… gặp gỡ các tổ
chức, các nghị sĩ và nhân sĩ chống chiến tranh, tiếp xúc với báo giới, trả lời
phỏng vấn, nói chuyện với sinh viên, gặp gỡ kiều bào… tuyên truyền về thắng lợi
quân sự trên chiến trường, về về cuộc hành quân Lam Sơn 719 đã “chuyển thành một
thất bại khổng lồ cho ý đồ của chính quyền Mỹ và cho các kế hoạch họ đã vạch ra
cho Việt Nam cộng hòa”[39], cũng
như về sự phá sản hoàn toàn không gì cứu vãn được của chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh”. Những hoạt động này đã làm bùng nổ một làn sóng chống chiến
tranh, ủng hộ Việt Nam rộng khắp, dấy lên phong trào lên án giới cầm quyền Mỹ, thúc đẩy nhân dân Mỹ chống chiến
tranh,
làm rung động Nhà Trắng
Một cách tổng
quát, bên cạnh đàm phán Hội nghị Paris đang dần đi đến thực chất dưới sự tác động
của đánh – đàm, để tranh thủ dư luận thế giới, tập hợp bạn bè quốc tế, bên
ngoài bàn đàm phán, hai Đoàn Ngoại giao Việt Nam phối hợp chặt chẽ hoạt động,
tích cực tác động vào nội bộ nước Mỹ, phối hợp với phong trào của nhân dân Mỹ
đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút nhanh, rút hết quân Mỹ khỏi Đông Dương;
tác động vào nội tình miền Nam Việt Nam, góp phần phân hóa và cô lập thêm chính
quyền Thiệu – Kỳ - Khiêm.
* *
*
Thắng
lợi của chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào đã “đánh bại cố gắng quân sự cao
nhất của ngụy quân trong chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, đánh dấu bước thất
bại nghiêm trọng của chiến lược này”[40]. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 chứa đầy những
kỳ vọng của chính quyền Mỹ đã đi vào lịch sử những cuộc chiến tranh mà người Mỹ
theo đuổi ở bên ngoài biên giới nước Mỹ như một dấu ấn đen tối, một “cuộc dạo
chơi xuống địa ngục”[41].
Thất bại này là hậu quả một chuỗi sai lầm mà chính quyền Mỹ mắc phải trong khi
theo đuổi cuộc chiến tranh Việt Nam, bắt đấu từ chính việc họ quyết định thách
thức ý chí độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Trong thế
thua của đối phương, thế thắng của Việt Nam DCCH, nhận thức rằng, "quân
sự là việc chủ chốt trong kháng chiến"[42],
Bộ thống soái tối cao
VNDCCH đồng thời nắm vững mối quan hệ giữa quân sự và
ngoại giao, nâng ngoại giao thành một mặt trận có ý nghĩa chiến lược phối hợp
chặt chẽ với mặt trận quân sự, tạo cục diện đan xen giữa đánh và đàm với một hiệu
quả mới, tạo thế và lực mới cho cuộc kháng chiến, chống Mỹ cứu nước đang đi gần
đến hồi kết thúc. Hiện nay, trên con đường
hội nhập, phát triển nhanh và bền vững của đất nước, khi xu thế quốc tế
hoá đời sống của các quốc gia dân tộc trên hành tinh đang trở thành xu thế nổi
trội; khi thời cơ và thách thức vẫn đan xen, tranh
chấp lãnh thổ, lãnh hải, biển đảo vẫn tồn tại và thậm
chí rất gay gắt…, thì việc xây dựng chiến lược ngoại
giao đúng đắn song song với việc củng cố nền quốc phòng toàn dân, nhằm bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền đất nước vẫn đang là một đòi hỏi hết sức nóng bỏng.
Thực hiện yêu cầu và trách nhiệm đó, các kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước về quan hệ thực lực và ngoại giao không những chưa bao giờ mòn cũ, chưa bao giờ mất
đi ý nghĩa, mà còn ngày càng sáng lên những giá trị đích thực.
Tải bài viết tại: Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
[1] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tập
28, tr. 86.
[2] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd Sđd,, tập 28, tr. 87.
[3] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 89.
[4] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 89.
[5] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 116.
[6] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 170
[7] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 170.
[8] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 169-170.
[9] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 170.
[10]Quốc hội Mỹ thông qua
Đạo luật bổ sung Cupơ Sớtsơ, hạn chế
hoạt động của quân viễn chinh Mỹ tại chiến trường Đông Dương, cấm đưa lục quân
Mỹ hoạt động ngoài biên giới miền Nam Việt Nam.
[11]Cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh ra khu vực Đường số 9-Nam Lào; cuộc hành quân Toàn thắng 01/71 NB với quy mô trên 30
tiểu đoàn từ Tây Ninh và Lộc Ninh đánh lên vùng Kôngpôngchàm và Krachiê (Đông
bắc Campuchia); cuộc hành quân hành quân Quang
Trung 4 quy mô khoảng 1 sư đoàn đánh ra vùng ngã ba
biên giới thuộc Atôpơ, Nam Lào (vùng Tà Xẻng,
Pa Kha Sê Sụ).
[12]Henry Kissinger, Những năm ở Nhà
trắng (1968 - 1973), Trung tâm Thông tin Khoa học quân sự - Bộ Quốc phòng,
Sao lục, 1981, tr.209.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 32, tr. 350.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
tập 32, tr. 118.
[15] Chiến dịch bắt đầu ngày 30-1 và kết thúc ngày 23-3-1971.
[16]Giai đoạn thứ nhất: 15/3/1968-31/10/1968; giai đoạn thứ hai: từ đầu năm
1969 đến giữa năm 1972; giai đoạn thứ ba: từ giữa năm 1972 đến tháng 1/1973.
[17]1). Quân giải phóng
đã bẻ gãy hoàn toàn cánh quân phía Bắc Đường 9 của địch, tiêu diệt
Lữ đoàn 3 dù, Thiết đoàn 17, đánh thiệt hại nặng Liên đoàn 21 biệt động quân,
phá vỡ kế hoạch thiết lập các căn cứ hoả lực vừa bảo vệ sườn Bắc vừa chi viện
cho cánh quân chủ yếu tiến công lên Sê
Pôn của chúng; 2). Tiêu diệt quân địch ở
điểm cao 723 - lực lượng mạnh nhất của Sư đoàn 1 quân đội Sài Gòn, thắng lợi đã tạo
điều kiện thuận lợi cho Sư đoàn 2 và các đơn vị bạn trong chiến dịch bẻ gãy
hoàn toàn cánh quân phía Nam Đường 9 của đối phương
và ta khống chế được khu vực từ Sê Pôn đến Bản Đông.; 3). Tiêu diệt
tập đoàn chủ yếu của địch trong cuộc hành quân của chúng ở Bản Đông.
[18]Quân đội Sài
Gòn bị tổn thất 21.102 lính, trong đó có 19.960 bị giết và bị thương, 556 máy
bay bị bắn rơi và phá hủy, hàng ngàn xe cơ giới các loại, hàng trăm khẩu pháo
và súng cối hạng nặng cùng nhiều phương tiện chiến tranh khác bị phá hủy và thu
giữ (dẫn theo Bộ Quốc phòng -Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch phản công Đường số 9-Nam Lào năm
1971, Hà Nội, 1987, tr. 61- 62).
[19]Henry Kissinger, Những năm ở Nhà
trắng (1968 – 1973), Trung tâm Thông tin Khoa học quân sự - Bộ Quốc phòng,
Sao lục, 1981. tr. 241-242.
[20]Gabriel Kolko, Giải phẫu một cuộc
chiến tranh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr. 446.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
tập 32, tr. 195.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
tập 32, tr. 366.
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
tập 32, tr. 366-367.
[24]Cho đến giữa năm 1971, đàm phán tại Hội nghị Paris đi vào vòng luẩn quẩn,
bế tắc, không mang lại kết quả nào đáng kể, vì phía Mỹ vẫn muốn đàm phán trên
thế mạnh. Mỹ cố tình hạ thấp Hội nghị, hy vọng xoay chuyển cục diện chiến
trường để đạt kết quả đàm phán có lợi nhất cho Mỹ.
[25]Trong tiến trình
đàm phán, âm mưu của chính quyền R. Nixon là tách vấn đề quân sự và chính trị;
chỉ giải quyết vấn đề quân sự nhằm thực hiện rút quân, ngừng bắn toàn bộ với cả
Mỹ và quân đội Sài Gòn để duy trì và củng cố quân đội Sài Gòn. Quan điểm của Việt Nam là phải giải quyết toàn bộ và chỉ
ngừng bắn sau khi giải quyết cả vấn đề quân sự và chính trị, do đó phải giải
quyết hai vấn đề quan trọng là: Mỹ phải
định thời hạn rút quân khỏi miền Nam và Mỹ phải chấm dứt việc ủng hộ nhóm cầm
quyền hiếu chiến hiện nay do Thiệu cầm đầu.
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
tập 32, tr. 408.
[27] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
tập 32, tr. 409-410.
[28] Đáng lưu ý
là Sáng kiến 7 điểm, trong đó, sáng
kiến thứ nhất gợi ý rõ một thời hạn rút quân là trong năm 1971, gắn việc rút an
toàn quân đội Mỹ và thả tù bình hai bên bắt đầu cùng ngày và kết thúc cùng ngày.
Sáng kiến thứ hai và ba tập trung yêu cầu lập chính phủ hòa hợp dân tộc rộng
rãi ba thành phần. Sáng kiến thứ tư đề nghị vấn đề các lực lượng vũ trang ở miền
Nam sẽ do các bên Việt Nam cùng nhau giải quyết trên tinh thần hòa hợp dân tộc.
Sáng kiến thứ năm về việc miền Nam Việt Nam và Mỹ sẽ thiết lập quan hệ chính trị,
kinh tế - xã hội.
[29]Lưu Văn Lợi,
Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức
Thọ - Kisinger tại Paris, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002, tr. 178.
[30] Xuân Thủy,
“Một số vấn đề về Hiệp định Paris”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1-2008, tr. 7
[31] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 30, tr. 202..
[32]Chỉ thị 009/QUTW, do Bí thư Quân uỷ Trung ương Võ Nguyên Giáp ký ngày 9.2.1971, Cục Lưu trữ
Bộ Quốc phòng, hồ sơ 594.
[33] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 32, tr.
248.
[34] Tin Mĩ và thế giới, ngày 5-4- 1971.
[35] Roitơ, ngày 28- 3 - 1973.
[36] Thời báo (Mỹ) ngày 5-4-1971
[37] Giô-dép A. Am-tơ: Lời phán quyết về
Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr. 323-324.
[38] Giôdep A. Amtơ, Lời
phán quyết về Việt Nam, Sđd, tr.325.
[39] Gabriel Kolko, Giải phẫu một cuộc
chiến tranh, Sđd, tr.430.
[40]Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước: Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995. tr. 32
[42]Võ Nguyên Giáp, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997, tr. 204
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!