PGS. TS. HỒ KHANG
Viện Lịch sử
quân sự Việt Nam
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy “Tết Mậu Thân” 1968 của quân và dân Việt Nam không
chỉ sau này mà ngay từ ngày đó - khi chiến sự đang diễn ra ở khắp các đô thị
trên toàn miền Nam, đã đưa lại những hậu quả và hệ lụy nặng nề cho phía Mỹ. Nó
giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ sau bao năm theo đuổi chiến
tranh Việt Nam, nó buộc Mỹ phải đơn phương “xuống thang”, thay đổi chiến lược,
rút dần quân Mỹ về nước... Nó trở thành nỗi ám ảnh không nguôi trong chính giới
Mỹ, trở thành một “hội chứng Việt Nam” của Mỹ suốt bao năm qua, trở thành một
kỷ niệm không vui của nước Mỹ nói chung - một nước lần đầu tiên bị thua trận
trong lịch sử 200 năm lập nước của mình.
Với “Tết Mậu Thân”, dù chưa đạt được yêu cầu của khả năng thứ nhất - một
trong ba khả năng mà Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng LĐVN lần thứ 14 dự
kiến và dù phải hy sinh to lớn nhưng đã xoay chuyển được cục diện tình hình mà
trước đó chưa bao giờ tạo được. Cục diện đó cho phép tiếp tục đưa cách mạng
miền Nam tiến lên theo phương hướng chiến lược mới như lời Thơ chúc Tết của Hồ
Chí Minh:
“Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”
Chỉ sau khi Mỹ rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, VNDCCH mới có thể tính
đến chuyện dồn hết tâm lực đánh với khí thế áp đảo “một ngày bằng hai mươi năm”
đặng tiến thẳng tới Dinh Độc Lập, giữ được một Sài Gòn hầu như nguyên vẹn,
không diễn ra một cuộc “tắm máu” nào ở các đô thị miền Nam như nhiều người ở
phía bên kia từng tưởng tượng vào mùa Xuân năm 1975. Để có được Mùa xuân toàn
thắng, nhân dân Việt Nam đã phải trải qua chặng đường dài mấy mươi năm chiến
đấu với biết bao thử thách hy sinh mà Xuân Mậu Thân 1968 là một cột mốc lớn -
ghi dấu bước ngoặt lớn của cuộc chiến tranh.
Thế nhưng lý giải về nguyên nhân, tác động của “Tết Mậu Thân”, giới quân
sự, chính trị cũng như một số tác giả Mỹ - và ngay cả một số nhà nghiên cứu
trong nước - thường vẫn chỉ tập trung vào các sự kiện như: sự bí mật, bất ngờ
trong “Tết Mậu Thân”; việc đưa tin và tô đậm ấn tượng về “Tết Mậu Thân” của các
phương tiện truyền thông Mỹ; sự phản ứng không đúng lúc của giới quân sự Mỹ;
phong trào phản đối chiến tranh bùng lên dữ dội giữa lòng nước Mỹ... Những điều
đó đều đúng cả. Nhưng nó chỉ là những hệ quả, là những biểu hiện bên ngoài của
“Tết Mậu Thân” mà thôi.
Những hệ quả và biểu hiện đó không phải là động lực chính làm cho chính
giới Mỹ phải đi từ chỗ chủ động đến bị động; từ thế công đến thế thủ, và phải
soát xét lại toàn bộ đường lối tiến hành chiến tranh để cuối cùng chịu thất bại
cay đắng trên chiến trường Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, sự thực là chỉ khi bị thất bại về
quân sự thì Mỹ mới chịu “xuống thang” chiến tranh ở chiến trường này - cái
chiến trường mà ngay từ đầu Mỹ muốn “đánh nhanh, rút nhanh”, nhưng thực tế đã
cho thấy là “vô vọng”, là không bao giờ có thể thực hiện được, vấn đề này, từ
trước “Tết Mậu Thân” và ngay cả nhiều năm sau đó, giới tướng lĩnh quân sự và
nhiều tác giả Mỹ đã lấy tiêu chí của một trận đánh để xem xét một chiến lược,
lấy việc “đếm xác”, dựa vào con số thống kê về thương vong của hai bên để so
sánh rồi phân thắng - bại. Phía Mỹ đã không hiểu được rằng một nước nhỏ như
Việt Nam, khi chấp nhận cuộc đụng đầu với một “siêu cường” như thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, vì tự do và độc lập của dân tộc mình, thì, mọi người Việt Nam yêu
nước đều chung một ý chí: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Ý chí đó,
quyết tâm đó của ngày đầu toàn quốc kháng chiến năm 1946, gần hai mươi năm sau,
Hồ Chí Minh lại một lần nữa tuyên bố: “Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước,
đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu;
dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên
quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. Vậy, xem xét thắng - bại của một
chiến lược quân sự, một cuộc chiến tranh, điều chủ yếu là xem xét hiệu lực thực
tế của chiến lược đó, của cuộc chiến tranh đó so với mục tiêu chiến lược đề ra
ban đầu. Vì thế, để làm rõ sự thất bại của phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong
dịp “Tết Mậu Thân” - mà trước hết là thất bại về quân sự, bài viết trình bày thực trạng chiến trường miền Nam Việt Nam trong những tháng đầu của năm 1968.
Từ những ngày đầu tiến hành chiến tranh cục bộ, mục tiêu bao trùm của Mỹ là
dùng sức mạnh quân sự khổng lồ để tiêu diệt lực lượng vũ trang và cơ sở chính
tri của cách mạng miền Nam, khủng bố tinh thần kháng chiến của nhân dân Việt
Nam, củng cố chính quyền và quân đội Sài Gòn làm cơ sở cho sự thống trị miền
Nam. Để đạt tới mục tiêu chiến lược đó, Mỹ liên tục tăng quân Mỹ vào miền Nam,
kể cả việc lôi kéo và thúc ép một số đồng minh đưa quân vào cùng Mỹ trực tiếp
tham chiến; sử dụng không quân, hải quân - hai “át chủ bài” trong thành phần
lực lượng quân sự Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc với quy mô, cường độ
ngày càng mở rộng và ngày càng khốc liệt. Mỹ đưa vào sử dụng và khai thác triệt
để những thành tựu tiên tiến nhất của nền khoa học - công nghệ để tăng tính tàn
phá và sức hủy diệt đối với một đất nước thua kém Mỹ nhiều lần về tiềm lực và
sức mạnh kinh tế, quân sự... Ví như, để phát hiện vị trí của các đơn vị Quân
giải phóng miền Nam, giới quân sự Mỹ đã dùng các máy ra đa nhỏ xách tay và các
“máy ngửi” có thể phát hiện cả mùi nước tiểu; dùng máy tính 1430 của hãng IBM
lập trình để dự toán thời gian và địa điểm mà đối phương có thể đánh. Trên miền
rừng núi hay dọc theo các dải rừng ngập mặn, Mỹ đã rải một khối lượng lớn chất
độc hóa học nhằm làm rụng lá cây, “khai quang” để đối phương không còn chỗ ẩn
náu (!). Sau này, một số tác giả Mỹ cho biết: “Phi hành đoàn trên máy bay C.123
thấm nhuần một khẩu hiệu rất mỉa mai “chỉ có các anh là chặn được các khu rừng”
và đã rải khoảng 50.000 tấn hóa chất mang tên “tác nhân da cam” lên hàng triệu
ha rừng, hủy diệt khoảng 1/2 rừng cây lấy gỗ của Nam Việt Nam và để lại những
tổn thất đối với con người mà nhiều thập kỷ sau cũng chưa xác định được” [1].
Bên cạnh đó, Mỹ còn sử dụng một khối lượng bom đạn khổng lồ để tiến hành “một
kiểu chiến tranh điên cuồng nhất” - như lời nhận xét của tác giả G.C. Hê-ring
trong cuốn sách Cuộc chiến tranh dài ngày nhất nước Mỹ của ông, hòng đánh nát
các căn cứ của quân giải phóng miền Nam. Kiểu chiến tranh ấy, như lời của viên
tướng Mỹ Uy li-am Đi-puy - một trong những “kiến trúc sư” chính của chiến lược
“tìm diệt”, rằng: “Giải pháp ở Việt Nam là thêm bom, thêm pháo, thêm napan...
cho đến khi phía bên kia sụp đổ và đầu hàng” [2].
Dựa vào sức mạnh quân sự hùng hậu, trong những năm 1965, 1966, 1967, Mỹ sử
dụng quân Mỹ mở các cuộc hành quân “tìm diệt” chủ lực quân giải phóng và
cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam, dùng quân đội Sài Gòn yểm trợ chương trình
“bình định” nông thôn miền Nam, dùng không quân và hải quân Mỹ leo thang đánh
phá miền Bắc, nhằm uy hiếp tinh thần của nhân dân miền Bắc, ngăn chặn sự chi
viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam... Và quả thật, trong khoảng thời gian
này, trên cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam, 3 quân chủng là lục quân, không quân
và hải quân Mỹ đã có thể đánh phá và uy hiếp những nơi nào mà Mỹ muốn, hòng
“dồn đối phương vào chân tường” như nhận xét của nhiều tác giả Mỹ khi đề cập
tới cuộc chiến tranh Việt Nam...
Thế nhưng, trải qua hai mùa phản công chiến lược, các biện pháp trên đây
không mang lại hiệu quả như Mỹ trông đợi. Ngược lại, qua hơn hai năm trực tiếp
đương đầu với lục quân, không quân và hải quân Mỹ, lực lượng, thế trận chiến
tranh nhân dân không những không bị tiêu diệt và đẩy lùi mà càng phát triển
trên khắp ba vùng chiến lược là rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; ý chí,
quyết tâm đánh Mỹ được tăng cường trong toàn quân và toàn dân trên cả hai miền
Nam, Bắc. Lực lượng, thế trận, ý chí, quyết tâm đó cho phép mở cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968.
Trong gần hai tháng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường miền
Nam như những đợt sóng đánh vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận
lỵ.
Tại nhiều đô thị, lực lượng vũ trang đã chiếm giữ nhiều nơi trong nhiều
ngày, nhiều giờ. Hầu hết các cơ quan đầu não từ trung ương tới địa phương của
Mỹ, chính quyền và quân đội Sài Gòn bị tiến công. Bộ binh, pháo binh, đặc công,
biệt động Quân giải phóng đã đánh mạnh, đánh trúng 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8
trong số 11 bộ tư lệnh sư đoàn quân Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư
lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, các tiểu khu, chi
khu và hàng trăm căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay bến cảng. Nhiều tuyến giao
thông thủy bộ bị chặn cắt, nhiều cơ sở thông tin bị tiến công khiến hoạt động
vận chuyển, liên lạc tại nhiều vùng do Mỹ, chính quyền và quân đội Sài Gòn kiểm
soát bị ngừng trệ. Như vậy, đây là lần
đầu tiên trong nhiều năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, toàn bộ hệ
thống phòng thủ đô thị của Mỹ, chính quyền và quân đội Sài Gòn đã bị
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đầu Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam
phá vỡ; hậu phương, hậu cứ chiến tranh của đối phương trở thành chiến trường
nơi đọ sức quyết liệt giữa hai bên tham chiến trong nhiều tuần, nhiều tháng.
Trong cuộc đọ sức đó, bằng lối đánh táo bạo và dũng mãnh, các đơn vị vũ
trang quân giải phóng miền Nam đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực của đối phương, phá hủy, phá hỏng nhiều
vũ khí và dự trữ chiến tranh, làm rối loạn hậu phương, hậu cứ an toàn của đối
phương. Mặc dù cho đến nay, về số thương vong của mỗi bên vẫn chưa được phía Mỹ
và Việt Nam công bố chính xác nhưng có thể khẳng định được rằng: Trong dịp Tết Mậu
Thân, tất cả các bên tham chiến đều bị hao tổn nặng nề về lực lượng, phương
tiện chiến tranh. Tuy nhiên, điều quan trọng khiến cho dư luận Mỹ và thế giới
kinh ngạc lại là ở chỗ: Quân giải phóng miền Nam đã có thể mở cuộc tiến công
rộng khắp, đồng loạt vào hàng trăm đô thị trên toàn miền và gây cho Mỹ bị nhiều
thương vong trong khi họ chỉ sử dụng một bộ phận lực lượng không nhiều. Theo
nhận định của Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn lúc đó và được nhiều tác giả Mỹ
sau này trích dẫn thì, Bộ Chỉ huy Cộng sản đã tung vào một lực lượng ước chừng
67.000 quân trong tổng số 240.000 ở miền Nam Việt Nam... Dàn ra để chống lại họ
là 1.100.000 tay súng - 492.000 quân chiến đấu Mỹ, 61.000 quân Nam Triều Tiên,
Thái Lan và các nước trong “Thế giới tự do” khác, 342.000 quân thường trực của
chính phủ Việt Nam cộng hòa và 284.000 quân địa
phương và phòng vệ dân sự. Ngoài ra, Mỹ còn huy động 2.600 máy bay, 3.000 trực
thăng và 3.500 xe thiết giáp”[3] mong chống đỡ cuộc Tổng tiến công này. Cho dù
sự chênh lệch về quân số, hỏa lực, phương tiện chiến tranh là hết sức lớn -
nghiêng hẳn về phía Mỹ, nhưng Quân giải phóng miền Nam không những đã phá vỡ
tuyến phòng thủ đô thị kiên cố của đối
phương, gây những tổn thất nặng nề về sinh lực, phương tiện chiến tranh
mà còn ghìm chân được một đội quân đông hơn 1 triệu tên được trang bị hiện đại
vào mặt trận đô thị. Mười bảy năm sau “Tết Mậu Thân”, G. Côn-cô trong Giải phẫu
một cuộc chiến tranh đã xem đây là “một trong những bài học cay đắng nhất trong
chiến đấu của Mỹ [4].
Trong khi cuộc tấn công “TẾT”
đang lên tới đỉnh cao, Uy-lơ - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân
Mỹ đã báo cáo về Oa-sinh- tơn ngày 17 tháng 2 năm 1968 rằng: Cuộc tấn công ban
đầu của Việt cộng đã “gần thành công” ở hàng chục địa điểm. Để tránh được thất
bại, Mỹ chỉ có thể có những biện pháp “phản ứng kịp thời”. Sự “phản ứng kịp
thời” đó đã buộc quân Mỹ phải sử dụng ồ ạt hỏa lực trọng pháo, máy bay và thiết
giáp để san bằng nhiều khu phố, giết hại nhiều dân thường ngay ở giữa hậu cứ,
hậu phương chiến tranh của chúng. Tại Huế, “hỏa lực Mỹ đã biến 80% thành phố
thành gạch vụn” [5]. Trọng pháo và máy bay Mỹ còn san bằng một nửa tỉnh lỵ Mỹ
Tho - thị xã có 80.000 người dân sinh sống. Thị xã Bến Tre cũng chịu chung số
phận.
“Cần phải hủy diệt thành phố này để cứu nó”. Đó là lời của một viên sĩ quan
Mỹ nói trong lúc đang chỉ huy quân Mỹ tàn phá thị xã Bến Tre, ngày 7 tháng 2
năm 1968. Cùng với hình ảnh trùm cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan dí súng vào đầu một
biệt động quân giải phóng và bóp cò được trình chiếu trên màn ảnh nhỏ vô tuyến
truyền hình Mỹ, lời nói điển hình đó như một hình ảnh thu nhỏ về sự tàn bạo,
tính hủy diệt của cuộc chiến tranh mà Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam. Nó lập tức
được phổ biến rộng rãi trên báo chí Mỹ và nhiều nước trên thế giới. Và, vô hình
chung, những hình ảnh và lời nói này đã vạch trần sự trớ trêu đầy mâu thuẫn
giữa mục đích và biện pháp của cuộc chiến tranh mà Mỹ đề ra từ ban đầu, hy vọng
sẽ chinh phục được “khối óc và trái tim” người dân bản xứ; hy vọng có thể làm
cho mọi người tin rằng sự có mặt của Mỹ là nhằm giúp cho nhân dân miền Nam Việt
Nam bảo vệ và xây dựng một quốc gia tự do không cộng sản! Như vậy, cho dù sau
đó, với quan điểm thuần túy quân sự, Mỹ có đẩy được quân giải phóng ra khỏi các
đô thị và xem đấy là một thắng lợi của mình thì “Tết Mậu Thân” thực chất vẫn là
một thất bại nặng nề về chính trị của Mỹ trên chiến trường Việt Nam. Thật chí
lý khi mà, ngay trong “Tết Mậu Thân”, nhiều nhà bình luận Mỹ đã nhận ra rằng:
việc ném bom và pháo kích bừa bãi của Mỹ có thể sẽ “đẻ ra nhiều Việt cộng hơn
là giết họ” [6].
Tại nông thôn đồng bằng và rừng núi, đòn Tổng tiến công “Tết Mậu Thân” đã
làm cho bộ máy kìm kẹp của chế độ Sài Gòn... và 50.000 cán bộ bình định thuộc
555 đội chẳng được ai ngó ngàng tới, làm mục rã một trong những “gọng kìm” của
Mỹ. Bởi vì, một khi phần lớn các sinh lực Mỹ bị kìm chân ở đô thị, thì, ngay
lập tức lực lượng vũ trang tại chỗ đã hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy diệt ác, trừ
gian, giải tán dân vệ, giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng, giáng đòn
nặng vào hệ thống chính quyền cơ sở ở nông thôn.
Tại Trị - Thiên, hơn 20 vạn dân thuộc 40 xã, 300 thôn đã phá rã ách kìm
kẹp, đưa vùng giải phóng toàn khu lên tới bốn phần năm số thôn.
Tại Khu 5,Khu 6 đòn tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam đã “làm
sụp đổ phần lớn bộ máy kìm kẹp của địch” ở nhiều tỉnh đồng bằng vùng
duyên hải.
Tại Tây Nguyên, được hỗ trợ của lực lượng vũ trang, đồng bào nhiều nơi đã
phá bung khu tập trung, bỏ về buôn làng cũ làm ăn và xây dựng buôn làng thành
các làng chiến đấu.
Ở Nam Bộ, chính quyền cơ sở bị phá rã từng mảng, vùng làm chủ và vùng giải
phóng được mở rộng tới sát nhiều thị trấn, quận lỵ...
Tình hình trên đây đã được chính Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên
quân Mỹ thú nhận trong báo cáo gửi Giôn-xơn ngày 17 tháng 4 rằng: “Trên một
phạm vi rộng lớn, Việt cộng đã nắm quyền kiểm soát nông thôn”... Chương trình
“bình định” mà lúc đó Mỹ gọi là “Chương trình phát triển cách mạng” đã bị “thụt
lùi nghiêm trọng” [7]. Vào thời gian này tại Oa-sinh-tơn, Văn phòng Hệ thống
phân tích tình hình của Bộ Quốc phòng Mỹ đưa ra nhận xét: “Cuộc tấn công Tết
hình như đã vĩnh viễn giết chết chương trình bình định”. Thậm chí, “do nhận
thức sâu sắc thực tế sức mạnh quân sự của cộng sản và dự kiến những hoạt động
sắp tới của họ, một số người Mỹ đã bắt đầu nói đến khả năng thất bại” [8] của
Mỹ tại Việt Nam. Một quan chức Lầu Năm góc chịu trách nhiệm nghiên cứu lịch sử
cuộc chiến tranh vốn là người có nhiều kinh nghiệm ở Việt Nam đã đánh giá cao
khả năng của đối phương dịp Tết Mậu Thân và ghi trong bản báo cáo gửi lên cấp
trên rằng: “Làn sóng đỏ của ảnh hưởng cách mạng sẽ tràn khắp nông thôn đến tận
mép các tỉnh lỵ, quận lỵ” [9]. Ông ta cũng dự kiến rằng đến tháng 4 năm 1968,
quân đội Sài Gòn sẽ có hiện tượng đào ngũ tập thể, có thái độ hoàn toàn lãnh
đạm với chính quyền Sài Gòn, sẽ bắt tay với Cộng sản và trong dân chúng sẽ có
biểu tình làm cho tình hình hỗn loạn...
Sau này, một số tác giả Mỹ trong các công trình nghiên cứu về chiến tranh
Việt Nam cũng gặp nhau ở những nhận thức về thất bại này của Mỹ. Ấy là khi họ
đều nhận xét rằng: thật khó mà minh họa được tình hình kiểm soát của mỗi bên ở
nông thôn. G.Côn-cô cho biết thêm vào dịp “Tết Mậu Thân” từ Oa-sinh-tơn lẫn Sài
Gòn đều đã phải nhất trí rằng: “Mặc dù Mặt trận Dân tộc Giải phóng không thành
công ở các đô thị, nhưng họ đã thu được những thành tựu ở nông thôn” [10]. Lời
thú nhận từ phía Mỹ, chính quyền và quân đội Sài Gòn ở thời điểm “Tết Mậu Thân”
trên đây đã chứng minh rõ rằng: “Tết Mậu Thân” không chỉ đưa chiến tranh vào
tận hang ổ của Mỹ, chính quyền và quân đội Sài Gòn mà còn là đòn nặng giáng vào
chương trình “bình định” trên phạm vi toàn Miền.
Tình hình đó khiến cho nhiều người Mỹ làm việc trong chương trình “bình
định” hoang mang, kinh hãi. Và họ đã tỏ ra ngây thơ trong sự ngạc nhiên khi
thấy rằng: “Việt cộng đã vào được tất cả các thành thị để tiến công mà không có
một người Việt Nam nào báo cho chính phủ Nam Việt Nam biết! [11]. Tình hình đó
rõ ràng đã là mối đe dọa trực tiếp tới sự tồn tại của chính quyền Sài Gòn - một
cơ cấu chính trị mà Mỹ từ lâu đã dựa vào để tiến hành chiến tranh xâm lược kiểu
chủ nghĩa thực dân mới. Vì thế, cuối tháng 2 năm 1968, ủy ban Clíp-phớt - được
thành lập theo sự chỉ định của Giôn-xơn nhằm cứu xét yêu cầu xin tăng viện
206.000 quân của tướng Oét-mo-len và của Hội đồng tham mưu truởng liên quân Mỹ
để ứng phó với đòn tiến công “Tết Mậu Thân” - đã nhận thấy rằng: “Sự đáp ứng
chính trị không có hiệu quả, chính phủ Việt Nam cộng hòa có thể còn giúp cho
Việt cộng cải thiện sự nghiệp của họ trong các đô thị cũng như nông thôn”[12].
“Sự đáp ứng” chính trị mà Mỹ nói ở đây không phải là cái gì khác mà chính là Mỹ
giật dây Thiệu - Kỳ - Hương bắt giam các nhân vật đối lập, thanh lọc các cơ
quan hành chính, ban hành lệnh “tổng động viên” để bắt lính, đôn quân và đẩy
việc “tổ chức phòng vệ dân sự” lên thành “quốc sách”, cấm tụ họp quá 3 người,
cấm ra vào các thành phố, phát “thư tố cáo” cho các gia đình... Hậu quả của
những “đáp ứng chính trị” đó thực chất lại mang lại kết quả trái với mong muốn
ban đầu của Mỹ. Nó càng làm tăng thêm sự thù địch và chống đối của nhân dân
miền Nam, thu hẹp hơn cơ sở xã hội của chế độ Sài Gòn và làm suy yếu thêm lực
lượng quân đội Sài Gòn - một lực lượng vốn đã bại trận trước khi Mỹ ồ ạt đổ
quân vào miền Nam, ngày càng lệ thuộc vào sự có mặt của quân đội Mỹ; và ngay
trong nhiệm vụ “bình định” nông thôn trước đây nó cũng đã tỏ ra thụ động, bất
lực. Vì thế, người ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy vào lúc “Tết Mậu
Thân” nổ ra, tỷ lệ đào ngũ trong quân đội Sài Gòn đạt tới đỉnh cao hơn bao giờ
hết. Các tiểu đoàn chiến đấu trong hai tuần đầu của “TẾT”, chỉ còn một nửa số
quân. Sau “Tết”, tình trạng đào ngũ tiếp tục tăng lên, đặc biệt trong hàng ngũ
binh lính mới. Cũng từ đây, hiện tượng phản chiến ngày càng phổ biến, không chỉ
trong hàng ngũ binh lính mà cả trong hàng ngũ sĩ quan, không chỉ có ở quân đội
Sài Gòn mà cả ở quân đội Mỹ - một đội quân mà từ sau tuyên bố ngày 31 tháng 3
năm 1968 của vị tổng thống - tổng tư lệnh Giôn-xơn, đã bước vào thời kỳ thoái chí.
Vì thế, hơn lúc nào hết, giờ đây trong các đơn vị quân Mỹ ở miền Nam, tình
trạng khủng hoảng tinh thần, buông lỏng kỷ luật, sa sút ý chí chiến đấu trở nên
phổ biến và ngày càng trầm trọng. Người ta nhận thấy rằng: “Chính từ năm 1968,
đã phổ biến việc sử dụng ma túy và những vụ tấn công sĩ quan bằng lựu đạn”
trong các đơn vị quân Mỹ và chủ trương “Việt Nam hóa” chiến tranh không những
không ngăn được tình hình này “mà lại còn đẩy mạnh hơn”[13]. Hãy “tự lo lấy
sinh mạng của mình, sống qua thời kỳ này” và cố gắng “đừng là người lính chết
sau cùng ở Việt Nam” là tâm lý chung của đội quân viễn chinh Mỹ ở giai đoạn
“kiên trì trong cơn ác mộng” [14] này.
Như vậy, “Tết Mậu Thân” đã phơi bày toàn bộ những yếu kém và bất lực của
chính quyền Sài Gòn- một chính quyền mà quân đội và toàn bộ nền kinh tế của nó
ngày càng lệ thuộc vào sự có mặt của Mỹ. Không ai ở Sài Gòn và Oa-sinh-tơn có
thể tin rằng, một mai quân Mỹ rút, chính phủ Sài Gòn lại có thể tự tồn tại
được. Đó là lý do vì sao quân và dân miền Nam đã bước vào “Tết Mậu Thân” một
cách tự tin, dũng cảm và quyết liệt đến nhường ấy. Bởi đây là đòn tiến công bất
ngờ, với quy mô to lớn, nhằm vào chỗ yếu kém nhất của Mỹ ở miền Nam là chính
quyền Sài Gòn để làm nản lòng giới lãnh đạo Oa sinh-tơn, đặng đè bẹp ý chí xâm lược
của Mỹ. Đè bẹp ý chí xâm lược của Mỹ là mục tiêu quán xuyến của phía VNDCVH.
Bởi thế, ngay từ mục tiêu chiến lược ban đầu, Đảng LĐVN không hề ảo tưởng thắng
Mỹ trên thế mạnh đơn thuần về quân sự hay tiêu diệt toàn bộ quân đội Mỹ trên
chiến trường miền Nam mà đã chủ trương đánh Mỹ và thắng Mỹ bằng sức mạnh tổng
hợp mọi mặt về chính trị - tinh thần, về quân sự, về thế và lực của chiến tranh
nhân dân... Sức mạnh đó bắt nguồn từ ý chí gang thép, từ quyết tâm sắt đá của
cả một dân tộc không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ; bắt nguồn từ truyền
thống đánh giặc đầy mưu trí sáng tạo của cha ông trong suốt hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước [15].
Để phát huy cao độ sức mạnh đó, trong “Tết Mậu Thân”, Đảng LĐVN đã chủ
trương, một mặt, đánh mạnh đồng loạt vào các thành phố, các cơ quan đầu não của
Mỹ, chính quyền và quân đội Sài Gòn bằng lực lượng tại chỗ để gây “cú sốc”
mạnh, tác động nhanh tới ý chí xâm lược của Mỹ, mặt khác, rất chú trọng tới lực
lượng nổi dậy đồng loạt của quần chúng ở nông thôn và đô thị. Việc tấn công
đồng loạt vào các đô thị đã buộc toàn bộ lực lượng Mỹ đang từ thế phản công
“tìm diệt” chủ lực quân giải phóng và cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam
phải dồn về mặt trận đô thị, lâm vào thế phòng ngự bị động chống đỡ. Tình hình
quân Mỹ đã như vậy, nên lực lượng “Việt Nam cộng hòa” trong dịp “Tết Mậu Thân”
cũng lâm vào thế thủ co cụm quanh các thành phố, thị xã và thị trấn, khiến cho
Uy-lơ - Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đã phải kêu gọi chính
phủ Sài Gòn đưa quân đội đánh thốc ra vùng ven và vòng ngoài để giải tỏa áp lực
cho Sài Gòn và các đô thị khác đang bị đối phương vây hãm. Thế nhưng, quân đội
“Việt Nam Cộng hòa” - theo chính lời họ nói - đang ở trong tình thế khó xử, vì
họ không thể nào đối phó được với bất kỳ cuộc tấn công nào của “địch” vào các
thành phố. Trong tình huống như vậy, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ (M.A.C.V) buộc phải
dốc hết lực lượng của mình để giải quyết vấn đề hòng làm giảm áp lực của đối
phương ở các đô thị, các căn cứ quân sự, các đầu mối giao thông. Nhưng quan
trọng hơn còn là ở chỗ, từ “Tết Mậu Thân”, Mỹ đã phải huy động toàn bộ 50% quân
số ra các mặt trận phía Bắc để đối phó với những nguy cơ có thể xảy ra ở đây.
Và việc này lại đặt Mỹ trước một tình thế khó khăn mới là lực lượng dự bị của
Mỹ trên chiến trường đã bị tước đi quá mỏng. Điều đó sẽ rất nguy hiểm cho Mỹ
nếu như Khe Sanh, Huế, Quảng Trị, Tây Nguyên và Sài Gòn lại bị đồng loạt tiến
công. Vì những lẽ đó, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ước tính là cần phải xin tăng gấp
206.000 quân Mỹ sang Việt Nam vừa để giúp đỡ và khuyến khích quân đội Sài Gòn
rời các thành phố, thị xã và thị trấn trở lại nông thôn, vừa để tăng cường khả
năng ngăn chặn các cuộc tấn công kiểu “Tết Mậu Thân” của đối phương. Việc xin
tăng quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam làm nổ ra sự tranh cãi gay gắt ở trong giới
chức cao cấp Oa-sinh-tơn đến mức mà một số thành viên chính phủ Mỹ đã phải
thẳng thừng nói rằng: ông Oét-mo-len không được sợ thua nếu yêu cầu xin thêm
quân của ông ta không được Oa- sinh-tơn chấp thuận. Vao giữa tháng 3 năm 1968,
đề nghị tăng thêm quân của Oét-mo-len và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ
đã bị bác bỏ. Điều đó có nghĩa là Mỹ không thể có quân số cần và đủ để tiếp tục
theo đuổi chiến lược “tìm và diệt” như trước đây. Chính vì vậy mà từ sau
Tết Mậu Thân, quân chiến đấu Mỹ trên chiến trường miền Nam chuyển sang làm
nhiệm vụ chiếm đóng, phòng thủ, thực hiện chiến lược quân sự “quét và giữ”.
Thế là, sau bao năm tháng không “tìm diệt” được chủ lực Quân giải phóng
miền Nam, quân Mỹ lại phải quay sang làm nhiệm vụ “giữ nhà” của quân đội Sài
Gòn trước kia để tránh bị thương vong cao, để đẩy dần đội quân này ra trận trực
tiếp đương đầu với chủ lực quân giải phóng!.
Thế nhưng, việc chuyển sang chiến lược quân sự “quét và giữ” trên
đây, trên thực tế, cũng không mang lại thay đổi là bao so với tính toán của Mỹ.
Bởi vì, từ sau “Tết Mậu Thân”, các đô thị trên toàn miền Nam vẫn bị quân giải
phóng tiến công, số lính Mỹ bị thương vong ngày càng nhiều. Người ta thấy được
rằng, tổng số lính Mỹ bị diệt trong năm 1968 lên tới đỉnh cao chưa từng thấy trong
lịch sử cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ...
Như vậy, với “Tết Mậu Thân”, quân và dân trên chiến trường miền Nam Việt
Nam đã giành được những kết quả to lớn: tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực của
đối phương; phá hủy, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh; phá rã chính quyền
cơ sở ở nhiều vùng nông thôn; phá vỡ hệ thống phòng thủ đô thị của Mỹ, chính
quyền và quân đội Sài Gòn trên quy mô toàn Miền; làm đảo lộn thế bố trí chiến
lược của chúng ở miền Nam Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn là sự kiện“Tết Mậu Thân”
đã như một phép thử nghiệm nhiệm màu làm phơi bày toàn bộ những mâu thuẫn mà Mỹ,
chính quyền và quân đội Sài Gòn đã không sao khắc phục được trong đường lối và
cách thức điều hành chiến tranh; phơi bày toàn bộ sự thất bại về quân sự, chính
trị của Mỹ trong suốt những năm chiến tranh cục bộ. Không phải đợi đến sau này,
mà ngay trong Tết Mậu Thân, Cục tình báo Trung ương Mỹ (C.I.A) cũng buộc phải
thừa nhận rằng “những người cộng sản đã đạt được các mục tiêu quân sự, chính
trị và tâm lý lớn. Họ đã kiểm soát được những vùng nông thôn mới rộng lớn, đập
tan hệ thống chính trị, kinh tế và quân sự của Việt Nam cộng hòa và ít ra là
liên hệ được với khu vực đô thị một cách trực tiếp hơn và có tác dụng hơn[16].
Và: “Cuộc tiến công của cách mạng đã thành công với một mức độ
trọng yếu trong tất cả các mục tiêu ban đầu của mình, trừ cuộc khởi nghĩa ở đô
thị”[17]. Thành công đó của “Tết Mậu Thân” đã giáng một
đòn quyết liệt vào ưu thế của quân đội Mỹ trên chiến trường Việt Nam, làm suy
giảm vị trí và ảnh hưởng của chính quyền và quân đội Sài Gòn cả ở thành thị lẫn
nông thôn, khiến cho giới lãnh đạo cao cấp Oa-sinh-tơn phải bàng hoàng, sửng
sốt. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử 200 năm lập nước của mình, khả năng Mỹ
có thể bại trận - mà là bại trận ở một nước nhỏ bé, yếu kém về kinh tế và về vũ
khí trang bị, kỹ thuật chiến tranh - là chiến trường Việt Nam, đã hiện ra trước
mắt nhân dân Mỹ.
Trích cuốn: Phan Xuân Biên (Chủ biên), Sài Gòn Mậu Thân 1968, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, 2008.
Tải bài viết tại: Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
CHÚ THÍCH
[1] G.C. Hê-ring: Cuộc chiến tranh dài ngày
nhất nước Mỹ, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1998, tr.192, 193.
[4] Dẫn theo G. Côn-cô: Giải phẫu một cuộc
chiến tranh, NXB. Quân đội nhân dân trích dịch, 1991, tập 1, tr. 287.
[5] Dẫn theo G. Côn-cô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, NXB. Quân đội nhân dân
trích dịch, 1991, tập 1, tr. 287.
[11]Dẫn theo Trần Vàn Giàu: Miền Nam giữ vững
thành đồng, tập 5, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr. 55.
[13] Lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, bài viết của Laurent Césari, đăng trong
Tạp chí Xưa và Nay, số 225, tháng 12 năm 2004.
[14])Dẫn theo Mai-Cơn Mác-li-a: Việt Nam - cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, NXB.
Sự thật, Hà Nội, 1990, tr. 172.
[15] Về điều này, ngay từ tháng 3 năm 1967, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương Đảng - Lê Duẩn đã viết: “Phải thấu hiểu con người Việt Nam, lịch sử dân
tộc Việt Nam, có quyết tâm làm cách mạng đến cùng thì mới đánh giá được đúng
sức mạnh to lớn đó” (Bài đăng trong Tạp chí Quân đội nhân
dân, tháng 3 năm 1967).
[16] Nhận định của CIA, ngày 10 tháng 2 năm 1968. Dẫn theo G.Côn-cô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh. Sđd, tập 1, tr. 288.
[17]Nhận định của CIA, ngày 10 tháng 2 năm
1968. Dẫn theo G.Côn-cô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh. Sđd, tập 1, tr. 288.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!