PGS.TS. Hồ Khang
Trận chiến Khe Sanh đã đi vào lịch sử chiến tranh Việt Nam không chỉ bởi tầm quan trọng chiến lược của nó, mà còn bởi một một lý do hết sức đặc biệt- đây là nơi Mỹ đã phô diễn sức mạnh không quân ở mức cao nhất trong toàn bộ cuộc chiến nhằm đè bẹp đối phương. Song bất chấp mọi sự hủy diệt tàn bạo của bom đạn và vũ khí tối tân, Quân giải phóng vẫn trụ vững, kiên cường chiến đấu, buộc Mỹ phải rút bỏ căn cứ, chấp nhận một thất bại làm thay đổi cục diện cuộc chiến theo hướng hoàn toàn bất lợi.
1- Được coi “là cái mỏ neo ở
phía tây cho toàn bộ hệ thống phòng thủ phía nam khu phi quân sự và là bàn đạp
cho các cuộc hành quân trên bộ để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh"[1], ngay từ năm 1962, Khe
Sanh đã được Mỹ xây dựng thành một cứ điểm hết sức kiên cố với những trang thiết
bị quân sự hiện đại, dồi dào, nhất là hệ thống đường băng, kho bãi phục vụ cho
các hoạt động không quân. Cùng với hàng rào điện tử Mc Namara và hàng loạt căn
cứ như Cửa Việt, Cồn Tiên, Đông Hà, Cam Lộ..., Khe Sanh được Mỹ kỳ vọng sẽ là “thỏi
nam châm” hút Quân giải phóng, rồi dùng ưu thế về hỏa lực, nghiền nát đối
phương, tiêu diệt gọn trong một thế trận “Điện Biên Phủ đảo ngược”[2].
Với những kỳ vọng
lớn lao như thế, Khe Sanh trở thành mối bận tâm đặc biệt của Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson và Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ.
L.B. Johnsonchỉ thị cho tướng
Maxwell D. Taylor lập phòng "tình hình đặc biệt" tại Nhà Trắng và
đích thân theo dõi tình hình Khe Sanh; đồng thời, lệnh cho tướng Westmoreland
hàng ngày phải gửi về Washington những báo cáo chi tiết về diễn biến chiến sự
Khe Sanh. Tổng thống Johnson cho đắp sa bàn Khe Sanh ở Nhà trắng và hằng ngày
nghe “giao ban” về chiến sự ở đây. Vào những thời điểm gay cấn của cuộc chiến,
thậm chí cứ 50 phút, Westmoreland lại phải gửi báo cáo về cho Nhà trắng.
Westmoreland trực tiếp trực chiến ở Sở chỉ huy, trực tiếp nhận báo cáo về các
chuyến oanh tạc của B-52, duyệt các phi vụ cho ngày hôm sau mà những mục tiêu
ưu tiên và khu vực ưu tiên hàng đầu không phải cái gì khác và nơi nào khác
ngoài Khe Sanh[3].
Để
có thể giữ được căn cứ Khe Sanh và để không bị rơi vào một trận "Điện Biên
Phủ" thứ hai, quân đội Mỹ đã đổ vào đây một lực lượng lớn quân đồn trú khá
lớn, lên tới 6.000 binh lính;
lắp đặt hệ thống cảm biến điện tử tử tối
tân (ban đầu mang bí hiệu Muscle Shoals sau đổi
thành Igloo White) hỗ trợ cho việc trinh sát và do thám tin tức. Mỹ huy động toàn lực để chiếm ưu thế trên không và yểm trợ
hỏa lực tối đa cho căn cứ này. Các loại máy bay vận tải tải trọng lớn như Lockheed
C-130 (có thể chở 20 tấn hàng hóa), Fairchild C-123 (có thể chở 8 tấn) và trực
thăng vận tải hạng nặng đa năng CH-47 Chinook (có thể chở 3 tấn) đã được
chuẩn bị sẵn sàng cho các nhiệm vụ liên quan đến Khe Sanh. Để hỗ trợ cho hoạt động
tiếp vận, sáu hệ thống hỗ trợ thả dù được thiết lập, gồm: Hệ thống radar kiểm soát mặt đất (GCA), radar dẫn đường trên
không (ARA), hệ thống kiểm soát và cảnh báo sớm (AWADS), hệ thống hỗ trợ thả dù
tầm thấp (LAPES), hệ thống
hỗ trợ thả dù sát mặt đất (GPES).
Các loại máy bay tấn công chiến thuật hiện đại nhất như Thần
sấm F-105, máy bay tiêm kích F-4 Phantom và máy bay cường kích A-4 Skyhawk cũng
được người Mỹ sử dụng rộng rãi trong các hoạt động quân sự Khe Sanh[4].
Ngoài ra, 54 chiếc máy bay cường kích A-6 Intruder– loại máy bay có khả năng
hoạt động trong mọi thời tiết, phù hợp với việc tác chiến ở điều kiện rừng núi
rậm rạp cũng đã chuyển sang hoạt động hỗ trợ không quân cho Khe Sanh[5].
Mỹ còn tung vào đây con “át chủ bài”, niềm tự hào của Không quân Hoa Kỳ - “pháo đài bay” B-52. Bên cạnh đó, bom chùm sát thương (Cluster Bomb Unit or CBU) và bom Napalm – hai loại vũ khí hủy diệt, có thể phát huy hết
tính năng khi được thả vào rừng núi phân tán cũng đã được sử dụng ở mức tối đa.
Với ngần ấy binh lính và sức mạnh vật chất, nhất là sức mạnh không quân, cả MACV lẫn Bộ Chỉ huy tối cao Hoa Kỳ đã biến
Khe Sanh một căn cứ có những thế mạnh vượt trội không chỉ so với Điện Biên Phủ, mà so với mọi pháo đài đã từng
có trong lịch sử. Khe Sanh quả thật “đã
trở thành một biểu tượng quyết tâm của Hoa Kỳ để đối phó với Bắc Việt trong các
chiến lược chiến tranh”[6].
2- Đầu tháng 1-1968, các cảm biến điện tử Muscle Shoals đã cảnh báo về một
những hoạt động của Quân giải phóng theo đường mòn Hồ Chí Minh giáp biên giới
Lào. Phân tích các tin tức tình báo, MACV và tướng Westmoreland nhận định rằng,
Bắc Việt đang thực hiện một cuộc chuyển quân lớn và cỡ ba sư đoàn của Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam đang dần có mặt để bao vây Khe Sanh.
Đêm ngày 20 rạng sáng ngày
21-1-1968, pháo binh của Sư đoàn 304 Quân giải phóng pháo kích dữ dội vào căn cứ Khe Sanh, gây nhiều thiệt hại cho cứ điểm này.
Ngay lập tức, ngày 22-1-1968, Westmoreland quyết định triển khai chiến dịch Niagara II[7] - cuộc không kích lớn nhất
trong toàn bộ lịch sử cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong hồi ký của mình, Westmorelan
đã giải thích tên gọi của chiến dịch này nhằm mô tả những đợt bom, tên lửa và đạn
pháo sẽ được trút xuống như những thác nước[8].
Tiến hành chiến dịch, Westmoreland trao cho tướng W.W.Momeyer (Chỉ huy
trưởng của Tập đoàn không quân số 7 -7th Air Force) quyền chỉ huy, phối hợp hoạt
động của các lực lượng không quân khác nhau, gồm lực lượng không quân ở miền
Nam Việt Nam và Thái Lan, máy bay của Thủy quân đánh bộ ở Vùng 1, máy bay của Hải
quân từ tàu sân bay ngoài khơi và máy bay B-52[9]. Cũng cần
nói thêm rằng quyết định này của Westmoreland đã dẫn đến một cuộc tranh cãi nảy
lửa với Tư lệnh Thủy quân lục chiến Leonard F. Chapman và Tham mưu trưởng quân
đội Harold K. Johnson. Hai nhân vật này đã không đồng ý với đề nghị của
Westmoreland, e ngại rằng, đề nghị đó sẽ ảnh hưởng đáng kể đến ranh giới trong
thực thi các nhiệm vụ và quản lý vũ khí, khí tài của các lực lượng có liên
quan. Để đạt mục đích, Westmoreland đã phải làm găng tới mức đe dọa sẽ từ chức
nếu yêu cầu của mình không được đáp ứng. Cuối cùng thì mong muốn của Westmoreland
cũng được chấp thuận và thế là “lần đầu tiên trong chiến tranh Việt Nam, các hoạt
động không quân của tất cả các quân lực được đặt (dù chỉ tạm thời) dưới sự chỉ
huy của một người duy nhất”[10].
Tiếp nhận nhiệm vụ, tướng Momyer đã mô tả chiến
dịch Niagara bằng một từ viết tắt: SLAM (Seek: tìm kiếm; Locate: định vị);
Annihilate: hủy diệt; Monitor: hoàn thành) - nghĩa là tiến trình thực thi nhiệm
vụ được tiến hành tuần tự theo các bước: Sử dụng trinh sát, hỏa lực trên mặt đất
và trên không để tìm kiếm, định vị rồi đi đến tiêu diệt và kết liễu đối phương.
Trong kế hoạch SLAM của Momeyer, máy bay ném bom B-52 là điểm nhấn, là công cụ chủ
yếu và quan trọng nhất. Momyer hy vọng với tính năng vượt trội, khả năng rải
bom hoàn hảo (chiếc máy bay khổng lồ này có thể mang tới 108 quả bom, mỗi quả nặng
500 pound tương đương 227 kg trong bụng và trên các giá đỡ dưới cánh)[11], B-52 sẽ san phẳng và hủy
diệt một cách triệt để toàn bộ lực lượng của đối phương.
Dưới sự chỉ huy của
Momyer, Bộ Chỉ huy hành quân Không quân (DASC) chịu trách nhiệm phối hợp giữa
các cuộc không kích với các đợt pháo kích; Trung tâm Điều khiển và Chỉ huy Chiến
trường trên không (ABCCC) được đặt tại một chiếc C-130 Hercules hạ lệnh tấn
công vào các mục tiêu được lực lượng mặt đất yêu cầu và được định hướng bởi các
máy bay điều phối không quân (Forward air
controller – FAC[12]).
Khi điều kiện thời tiết không cho phép các máy bay FAC hoạt động, hệ thống hướng
dẫn đánh bom trực tiếp (Ground directed bombing-GDB) gồm hệ thống radar từ Trạm radar TPQ-10 đóng tại căn cứ và Trạm radar
MSQ-77 của Không quân đóng ở gần đó sẽ dẫn đường máy bay đến mục tiêu với độ
chính xác cao. Ngoài ra, Westmoreland cũng lệnh cho hệ thống Igloo White hướng
mọi hoạt động vào việc thu thập tin tức về các mục tiêu cần hủy diệt, phục vụ
cho hoạt động của không quân, mặc dù hệ thống này chỉ đang trong giai đoạn thử
nghiệm và đánh giá, rút kinh nghiệm ở Lào[13]. Momeyer cũng cho lắp hơn 250 thiết bị dò tìm
xâm nhập âm thanh/địa chấn (ACOUSID) và cảm biến phát hiện xâm nhập địa chấn/không
khí (ADSID) xung quanh Khe Sanh để phát hiện các chuyển động của Quân giải
phóng. Lực lượng Thủy quân lục
chiến đã thừa nhận rằng, “40% tin tức tình báo được gửi về cho Trung tâm điều
phối hỗ trợ hỏa lực của họ tại căn cứ là nhờ vào hệ thống cảm biến điện tử”[14].
9h30 ngày 22-1-1968,
Tập đoàn không quân số 7 báo cáo đã bắt
đầu chiến dịch bằng những phi vụ phóng tên lửa và ném bom rải thảm của các loại
máy bay chiến đấu, máy bay chiến thuật B-52 xung quanh Khe Sanh. Chỉ trong ngày
đầu chiến dịch, Mỹ đã tiến hành 595 các phi vụ tấn công
chiến thuật và 49 phi vụ B-52 được thực hiện bởi các máy bay của Thủy quân lục
chiến, Hải quân, Không quân[15]....
Cùng lúc, Mỹ tiếp vận cho Khe
Sanh bằng đường không và tiểu đoàn 1 (245 người ) do trung tá John F. Mitchell chỉ
huy (thuộc trung đoàn 9 Thủy quân lục chiến) đã được các máy bay trực thăng của
vận chuyển đến căn cứ[16]. Trong ngày 22-1, các máy
bay C-123 đã bay 20 phi vụ, tiếp tế cho Khe Sanh khoảng 130 tấn đạn dược đủ đáp
ứng yêu cầu khẩn cấp[17].
Từ ngày 22 đến ngày 29-1-1968, hơn 3.000 phi vụ tấn công chiến thuật đã được
tiến hành (khoảng 40 phi vụ B-52 và 500 phi vụ chiến thuật/ngày). Trung bình mỗi
ngày, có khoảng 350 máy bay ném bom chiến đấu, 60 máy bay B-52 và 30 chiếc máy
bay do thám hoạt động gần căn cứ[18]; trung bình cứ 90 phút đến 2 giờ lại có một đợt 3 chiếc máy bay B-52 đến
thả bom xung quanh căn cứ.
Qua các con số
trên, có thể nhận thấy tần suất lớn khủng khiếp của các phi vụ không quân mà Mỹ
tiến hành trong cố gắng giải vây cho cứ điểm quan trọng này, thậm chí cuộc Tổng
tấn công Tết cũng không ảnh hưởng đáng kể đến mức độ hoạt động của lực lượng
không quân Hoa Kỳ trong chiến dịch Niagara (3 ngày đầu của Tết, máy bay tiêm
kích và B-52 chỉ giảm vài phi vụ so với 3 ngày trước đó). Duy nhất có ngày
18-2-1968, khi phi trường khi Tân Sơn Nhất bị pháo kích, thì các chuyến bay yểm
trợ Khe Sanh của lực lượng không quân của Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa mới
được giãn ra, chuyển hướng phục vụ mục tiêu bảo vệ Sài Gòn.
Vào thời gian đầu
chiến dịch, Chỉ huy căn cứ Khe Sanh, Đại tá D.Lownds giới hạn các cuộc ném bom
của máy bay B-52 cách hàng rào phòng ngự khoảng 3 - 3.5 km để đảm bảo an toàn cho
quân đồn trú. Nắm lấy điểm yếu này, thực hiện chiến thuật “nắm thắt lưng địch mà đánh”,
Quân giải phóng di chuyển vũ khí, pháo cao xạ... và lực lượng vào sát hàng rào
cứ điểm, liên tục pháo kích, gây thiệt hại nặng cho phía Mỹ cả về lực lượng
quân đồn trú lẫn lực lượng Không quân. Rút kinh nghiệm, W.Momyer áp dụng
chiến thuận mới, cho phép máy bay B-52 ném bom chỉ còn cách căn cứ 1.4 km rồi
sau đó rút xuống còn 800 m[19].
Tới
đầu tháng 2-1968, súng cối và hoả lực phòng không của Quân giải phóng đã làm
cho lực lượng đồn trú ở Khe Sanh và các máy bay tiếp viện bị thiệt hại đáng kể,
lên đến 50 % toàn lực lượng. Tình hình khá bi đát vì nếu tỷ lệ này tiếp diễn
thì chẳng bao lâu nữa việc thất thủ của cứ điểm chỉ còn là vấn đề thời gian. Để
thoát ra khỏi tình trạng khốn đốn đó, các phi công của Thủy quân lục chiến đã
nghĩ ra giải pháp “Super Gaggle” – chiến thuật “đàn ngỗng siêu hạng”. Đó là một
chiến thuật kết hợp chặt chẽ giữa việc bắn tập trung, đồng loạt của các các
khẩu súng cối từ căn cứ mặt đất về hướng các vị trí súng phòng không của Quân
giải phóng với 4 máy bay phản lực tấn công A4 –Skyhawk (mang dưới cánh nhiều
hoả tiển chống xe tăng hạng nặng) vào các vị trí đó và tiếp sau là 4 máy bay
Skyhawk mang bom napalm xuất hiện, nối đuôi nhau tạo một bức tường lửa quanh
khu vực cần hủy diệt. Sau cùng, 2 máy bay Skyhawk rải hàng ngàn trái bom tí hon
đều khắp xuống khu vực xung quanh (loại bom nhỏ này được chỉnh thời gian phát
nổ khác nhau để có thể nổ lai rai và liên tục trong nhiều phút). Khóa đuôi là
một loạt đạn trái khói khác về hướng các vị trí phòng không của Quân giải phóng
để nếu chưa bị tiêu diệt thì bộ đội cũng bị các cột khói Phosphorus màu trắng
che mắt. Lúc này, khoảng 10-12 chiếc trực thăng CH-46, mỗi chiếc mang theo hơn
một tấn đồ tiếp liệu và đạn dược bay đến và đổ hàng tiếp tế. Để bảo vệ những
chiếc trực thăng CH-46 tiếp vận, 4 máy bay Skyhawk tiếp tục xuất hiện, bay kèm
hai bên và rải thêm những màn khói che phủ, tạo một dải không gian hẹp cho các
trực thăng CH-46 theo đội hình năm chiếc đáp xuống giữa hai bức tường khói, lần
lượt thả hàng rồi nối đuôi nhau cất cánh ngay vào giữa màn khói. Toàn bộ màn
phối hợp tác chiến và tiếp viện “Super Gaggle” kéo dài chừng trên dưới 5 phút
đồng hồ và từ khi màn khói chắn được thả xuống cho tới lúc chiếc trực thăng
cuối cất cánh thường không quá 30 giây. Đặc biệt, trong đội hình các máy bay
đáp xuống (thường là tốp thứ hai) luôn có một chiếc chở quân lính bổ sung; đồng thời, chuyển binh lính bị thương hoặc tử
thương về hậu cứ và vị trí đáp xuống của chiếc máy bay này không cố định, nhằm cố
gắng tránh không bị trúng đạn súng cối hoặc pháo của Quân giải phóng. Mỗi lần
tiếp vận như vậy, khi các tốp máy bay bay rầm rộ, rạch nát không trung, người
ta thường liên tưởng bầu trời Khe Sanh với một tổ ong khổng lồ khi mà Không
quân Mỹ phô trương sức mạnh ở mức đỉnh cao. Thực hiện chiến thuật này, lượng
tiếp viện cho quân đồn trú Khe Sanh đã tăng lên đáng kể: Trong tháng 2-1968, Không
quân Hoa Kỳ đã tiếp tế cho cứ điểm 465 tấn vật tư và vào tháng 3-1968, khi thời
tiết được cải thiện, số hàng tiếp tế đã tăng lên đến 40 tấn mỗi ngày[20]. Cho đến ngày 15-3-1968,
số hàng tiếp tế cho Khe Sanh đã vượt quá tổng số hàng hóa tiếp vận chung cho
lực lượng quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam cùng thời điểm.
Khi chiến dịch Niagara kết thúc (31-3-1968), máy bay của Không quân Hoa Kỳ đã thực hiện 9.691 phi vụ ném bom
chiến thuật, thả 14.223 tấn bom vào các mục tiêu trong khu vực Khe Sanh; máy
bay của Thủy quân lục chiến đã tiến hành 7.098 phi vụ và thả 17.015 tấn bom;
máy bay của Hải quân đã bay 5.337 phi vụ và thả 7.941 tấn bom mìn[21]. Tổng cộng, trong gần 1,5
tháng tiến hành chiến dịch Niagara, lực lượng không quân các quân binh
chủng của Mỹ đã thực hiện 22.126 phi vụ, thả xuống xung quanh căn cứ Khe Sanh
39.179 tấn bom đạn.
3- Mặc dù sử dụng sức mạnh không quân một cách áp đảo để tiêu diệt Quân
giải phóng, song trái với những tính toán và mong đợi của tướng Westmoreland và
MACV, Quân giải phóng vẫn trụ vững và dồn dập tiến công. Từ ngày 22-1 đến ngày 31-3-1968,
bất chấp những trận mưa bom rải thảm của B-52, những trận mưa bom chùm sát thương và bom Napalm cũng như tên lửa, đạn pháo, Quân Giải phóng tổ chức các cuộc
tiến công quận lỵ Hướng Hoá, cứ điểm Huội San, diệt cứ điểm Làng Vây, làm chủ
đoạn đường 9 từ Cà Lu đến biên giới Việt – Lào, sau đó phát triển lên vây lấn
và pháo kích căn cứ Khe Sanh suốt 50 ngày đêm; bao vây Cồn Tiên, đánh một số trận
ở hướng Đông Quốc lộ 1 để ngăn chặn lực lượng Mỹ ứng cứu cho Khe Sanh. Những thắng
lợi của Quân giải phóng tại Khe Sanh đã khiến cho cuộc chiến ở Việt Nam không thể nhìn thấy "ánh sáng cuối đường hầm". Không quân Mỹ dù ra đòn quyết liệt
nhưng không thể "nốc ao" Quân giải phóng như đã dự định. Chiến dịch Niagara với với định dạng SLAM đã thất bại, sau
mỗi đợt mưa bom có tính chất hủy diệt, tiếng pháo và tiếng súng bắn tỉa của
Quân giải phóng vẫn đều đặn vang lên, trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng cho quân
đồn trú; đồng thời, cũng khiến cho những cơn đau đầu của ông chủ Nhà trắng
hoành hành dữ dội hơn. Người Mỹ đã muốn chiến thắng đơn thuần bằng sức mạnh bom
đạn, nên đã không thể lý giải được một cách rõ ràng những nguyên nhân thất bại
trong chiến dịch Niagara nói riêng, trong toàn bộ trận chiến Khe Sanh nói chung. Cho đến ngày
hôm nay, đối với người Mỹ, thất bại của Không quân Mỹ tại Khe Sanh vẫn luôn là
một điều gì đó khó hiểu và hết sức bí ẩn.
[1] Strategic Crossroads at Khe Sanh,
www.historynet.com
[2]
Matthew Stevenson (2018), Why Vietnam
Still Matters: Was Khe Sanh a Win or a Loss? Counter Punch, March.
[3]
Bernard C Nalty (2012), Air War Over
South Vietnam 1968-1975, CreateSpace
Independent Publishing Platform, p.27.
[4]
Air Command and Staff College (2014), Air
Power and Its Role in the Battles of Khe Sanh and Dien Bien Phu (Defense), CreateSpace Independent Publishing
Platform , p.20.
[5] Message
from CINCPAC to JCS, dated 082145Z April 1968,
Subj: Weather Effects on Operations, p.2.
[6]
Bernard C. Nalt (2005), Air Power and the
Fight for Khe Sanh,
University Press of the Pacific, p.20.
[7]
Chiến dịch Niagara gồm hai giai đoạn; trong đó, Niagara I được thực hiện bởi
những lực lượng tình báo khác nhau trong quân đội Mỹ (CIA, lực lượng tình báo
của MACV-SOG,
máy bay trinh sát không người lái) để thu thập tin tức.
[8] William C. Westmoreland (1976), A
Soldier Reports, Garden City, NY: Doubleday, p. 412.
[9]
Bernard C Nalty (2012), Air War Over
South Vietnam 1968-1975, Ibid, p.27.
[10]Naval Historical Center (1991), Command and Control of Air Operations in the
Vietnam War, Colloquium on Contemporary History, January 23, No. 4, p.40.
[11]Naval Historical Center (1991), Command and Control of Air Operations in the
Vietnam War, Ibid, p.39
[12] Các máy bay này thường là loại nhỏ, định vị mục tiêu bằng
cách ném vật phát khói xuống vị trí cần tấn công. các máy bay ném bom bay phía
sau sẽ tới không kích vào mục tiêu.
[13] Jacob Van Staaveren
(1993), Interdiction in Southern Laos, Washington DC: Center
of Air Force History, p.290.
[14]
Bernard C. Nalt (2005), Air Power and the
Fight for Khe Sanh, Ibid, p.95.
[15] Trest, Warren A (1968), Project CHECO Southeast Asia Report. Khe Sanh (Operation NIAGARA) 22
January - 31 March, Defense Technical Information Center, p.9.
[16]
Bernard C. Nalt (2005), Air Power and the
Fight for Khe Sanh, Ibid, p.25.
[17] Bernard C. Nalt (2005), Air
Power and the Fight for Khe Sanh, Ibid,
p.25.
[18] Morocco, John (1984), Thunder
from Above: Air War, 1941–1968, Boston Publishing Company, Boston, p.175.
[19]Walter
J. Boyne (1998), Airpower at Khe Sanh,
Air Force Magazine, August.
[20] Moyers S. Shore (1969), The Battle of Khe
Sanh, Washington DC: U.S. Marine Corps Historical Branch, p.89.
[21]Prados, John; Stubbe, Ray (1991), Valley of
Decision: The Siege of Khe Sanh. Annapolis, Naval Institute Press, p.297.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!