Thứ Năm, 29 tháng 7, 2021

HẬU PHƯƠNG MIỀN BẮC VỚI SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM (1961-1965)


 

PGS.TS. Hồ Khang,

Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, để đi tới thắng lợi cuối cùng, Đảng Lao động Việt Nam đã có những chủ trương và sự chỉ đạo linh hoạt nhằm vượt qua những thách thức, khó khăn, tranh thủ tối đa các điều kiện thuận lợi, từng bước xây dựng lực lượng, củng cố sức mạnh toàn diện về mọi mặt. Một trong những minh chứng điển hình, cụ thể của sự linh hoạt ấy là quyết định thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

1-Tháng 9-1960, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ ba Đảng Lao động Việt Nam được tổ chức, nhằm đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam.

 Về cách mạng miền Nam, Đại hội chỉ ra rằng, nhân dân miền  Nam không  có con đường nào khác ngoài con đường đánh  đổ  chế  độ độc tài phát xít của Mỹ – Diệm, giải  phóng  miền  Nam[1]. Trên tinh thần "xây  dựng  miền Bắc, chiếu cố miền Nam"[2], Đại hội nhấn mạnh: Sự lớn  mạnh  không  ngừng của miền Bắc sẽ nâng cao lòng  tin  tưởng  và cổ vũ tinh thần hăng hái cách mạng của đồng  bào  yêu  nước ở miền Nam[3].

Đặc biệt, từ sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời (1960), tình hình so sánh lực lượng đã thay đổi đáng kể, tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân miền Nam tiến lên một bước mới. Nắm bắt tình hình,  quán triệt quan điểm của Đại hội III, ngày 24-1-1961, Hội nghị Bộ Chính trị quyết định "đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên  song  song  với đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả hai  mặt  chính  trị và quân sự”[4]. Tiếp đó, ngày 31–1–1961, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết về “Phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”, khẳng định cần “tập trung sức xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, tiếp tục đấu tranh bằng mọi hình thức để đánh địch từng bước, tiến lên đánh đổ hoàn toàn"[5]. Những quan điểm trên đây của Đảng Lao động Việt Nam trở thành một trong những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Sau các bước chuẩn bị đầy đủ và kỹ càng, ngày 15-2-1961, tại chiến khu Đ (miền Đông Nam Bộ), Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang ở miền Nam, bao gồm lực lượng ở lại không đi tập kết, lực lượng mới tham gia tại chỗ và lực lượng đi tập kết đã quay lại miền Nam hoạt động. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời là một giải pháp nhằm hóa giải những điều kiện bất lợi cho cách mạng tại Hiệp định Genene[6]. Vì thế, về mặt pháp lý, Quân Giải phóng miền Nam có vị thế tương đối độc lập với Quân đội nhân dân Việt Nam, song về thực chất, đây là lực lượng nòng cốt của các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, chịu sự lãnh đạo tối cao từ trên xuống của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Trung ương Cục miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Cùng với sự ra đời của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, cơ quan chỉ huy lực lượng vũ trang được thiết lập từ Miền đến xã, theo hệ thống dọc. Từ đây, các lực lượng vũ trang tự vệ tuyên truyền và lực lượng vũ trang tuyên truyền vốn ra đời từ phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam đã phát triển thành Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Quân Giải phóng được tăng cường lực lượng cán bộ tập kết về, được huấn luyện về chính trị - quân sự, phát triển lực lượng gồm ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích).

2-Ngay sau khi ra đời, Quân Giải phóng miền Nam đã phải đương đầu với những thử thách to lớn – Mỹ đưa ra và thực thi chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, hy vọng giành thế chủ động, nhằm“bình định” xong miền Nam trong vòng 18 tháng. Trong điều kiện đó, tác chiến lực lượng chủ lực của Quân Giải phóng ngày càng quan trọng - giữ vai trò quyết định trong việc tiêu diệt những bộ phận sinh lực lớn và quan trọng của địch, làm chuyển biến cục diện chiến trường. Một trong số những yếu tố đảm bảo cho các lực lượng chủ lực phát huy vai trò và hiệu lực trên chiến trường là phải được đảm bảo hậu cần, quân số, trang thiết bị vũ khí...

Nhận thức rõ yêu cầu nói trên, từ tháng 3 đến tháng 5-1961, Bộ Tổng tham mưu tập trung lập Đề án “Tổ chức và chuẩn bị lực lượng cho kế hoạch miền Nam” và Đề án “Trang bị cho chiến trường miền Nam”. Đây là hai đề án đầu tiên của Bộ Tổng tham mưu tập đối với chiến trường; đồng thời, là hai Đề án có ý nghĩa đặc biệt đối với sự lớn mạnh của Quân giải phóng. Theo các Đề án này, Bộ Tổng tham mưu dự định tổ chức cho miền Nam các lực lượng tập trung, các đại đội độc lập, đơn vị bảo đảm, cơ sở quân y, quân giới, tiếp tế, vận tải, các tiểu đoàn pháo độc lập và một số đại đội công binh, đặc công, cao xạ, thông tin[7].... Phương châm bảo đảm vật chất cho Quân Giải phóng miền Nam là “phát huy cao độ tinh thần tự lực cánh sinh, đồng thời miền Bắc tích cực giúp đỡ cho chiến trường miền Nam; tổ chức hệ thống tiếp tế chặt chẽ”[8].

Về trang bị cho chủ lực miền Nam, Bộ Tổng tham mưu xác định phải gọn nhẹ, đáp ứng yêu cầu “dễ cơ động, có hỏa lực khá mạnh để đánh gần, tiến hành nâng trang bị dần từng bước phù hợp với khả năng của miền Bắc”[9]. Bộ Tổng tham mưu nhấn mạnh cần hết sức chú ý trang bị những loại vũ khí mà địch đang hoặc sẽ sử dụng để miền Nam có thể tự túc được phần lớn đạn dược; ngoài vũ khí còn phải trang bị đồng bộ phương tiện chỉ huy, khí tài thông tin, sửa chữa vũ khí....Thực hiện mục tiêu này, Bộ Tổng tham mưu đồng thời nghiên cứu, đề xuất các kế hoạch trình Quân ủy Trung ương đề nghị các nước XHCN viện trợ vũ khí, khí tài, giúp đỡ sản xuất một số bộ phận trọng yếu của các loại trang bị như mìn, lưu đạn... cho Quân Giải phóng miền Nam. Tiếp đó, Bộ Tổng tham mưu soạn thảo Chương trình công tác năm 1963, đề cập đến các vấn đề chi viện cho Quân Giải phóng, về tuyển quân, biên chế, trang bị, huấn luyện và tổ chức hành quân; sửa chữa, bổ sung khí tài, chấn chỉnh mạng lưới thông tin, đào tạo nhân viên[10]..., nhằm phát triển Quân Giải phóng một cách toàn diện. Theo dự kiến của Bộ Tổng tham mưu, thì để đáp ứng nhu cầu chiến đấu ngày càng cao, trong ba năm 1965-1967, lực lượng Quân Giải phóng có thể phát triển lên khoảng 15-20 vạn quân, tổ chức 20 trung đoàn và một số sư đoàn; đồng thời, với lực lượng đó, cần chuẩn bị thêm 6.500 cán bộ các cấp và 3.800 nhân viên kỹ thuật chuyên môn[11]

Tháng 5-1964, Thường trực Quân ủy Trung ương thông qua Đề án xây dựng lực lượng vũ trang đến 1967, xác định rõ nguyên tắc chi viện cho Quân Giải phóng trên tinh thần: Về trang bị, miền Nam “có khả năng tiếp nhận và sử dụng đến đâu đưa vào đến đấy”[12]. Đặc biệt, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo Cục Nghiên cứu kỹ thuật, Cục Quân giới soạn thảo và thực hiện các đề án nghiên cứu kỹ thuật cho chiến trường miền Namnhằm cải tiến, chế tạo những trang bị kỹ thuật cần thiết phù hợp với lối đánh phục kích, công kiên vừa và nhỏ, đánh đặc công, chống máy bay, bảo đảm thông tin, chống vũ khí hóa học, vi trùng[13]...; nhờ đó, các loại súng cồng kềnh, sử dụng phức tạp đã được cải tiến giảm nhẹ trọng lượng, giảm bớt thiết bị lắp đạn, phù hợp với địa hình miền Nam nhiều kênh rạch.

3- Thực hiện nhiệm vụ "tích cực tiêu  diệt  sinh  lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm tan  rã  chính  quyền và lực lượng địch trên một phạm vi ngày càng  rộng  lớn;  tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng  bằng"[14], Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam rất cần sự chi viện về lực lượng, về vũ khí, đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng... với số lượng lớn. Chi viện sức người, sức của kịp thời trở thành yêu cầu sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của Quân Giải phóng. Điều đó đòi hỏi phải gấp rút mở những tuyến đường huyết mạch nối liền hậu phương với tuyền tuyến. Những tuyến đường ấy phải đủ sức đảm nhận, hoàn thành nhiệm vụ vận tải chiến lược, đáp ứng yêu cầu, tình hình phát triển của chiến trường và thậm chí phải vượt trước một bước. Trước tình hình cấp bách lúc đó, Bộ Chính trị đã giao nhiệm vụ cho Quân ủy Trung ương và Ban Thống nhất Trung ương chỉ đạo công tác quân sự ở miền Nam, quyết định tăng cường cán bộ, đẩy mạnh việc tiếp tế vũ khí, tài chính cho Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và mở rộng giao thông liên lạc Bắc - Nam.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương chủ trương nhanh chóng tăng cường lực lượng cho Đoàn 559 nhằm mở rộng tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn. Được tăng cường lực lượng và bằng những biện pháp tổ chức chặt chẽ, hiệu quả; nhờ đó, trong 4 năm thực hiện nhiệm vụ (1961 - 1965), Đoàn đã vận chuyển, bàn giao cho Quân Giải phóng gần 3.000 tấn vật chất các loại, đảm bảo hành quân cho 12.000 lượt người qua lại trên đường Trường Sơn. Từ năm 1961 đến năm 1964, có khoảng 40.000 cán bộ, chiến sĩ vào Nam công tác và chiến đấu, trong đó có 2000 cán bộ trung, cao cấp, riêng năm 1964 con số đó là 17.427 cán bộ, chiến sĩ và 3.435 tấn vũ khí[15], còn tính đến cuối năm 1965, miền Bắc đưa 50.000 cán bộ, chiến sĩ vào chiến trường phía Nam. Những năm 1965 - 1968, hậu phương miền Bắc  đã chuyển tới chiến trường miền Nam gần 100.000 tấn vật chất, đảm bảo cho hơn 200.000 lượt người qua lại trên đường Trường Sơn, khối lượng vật chất đó lớn gấp 10 lần so với những năm 1961 – 1964[16] ; huy động 336.914 người hành quân vượt Trường Sơn bổ sung cho Quân Giải phóng ; riêng năm 1968, miền Bắc bổ sung cho chiến trường miền Nam 141.084 chiến sĩ, 72.499 tấn vật chất[17].

 Như vậy, những năm 1965 – 1968, quá nửa lực lượng và 80% vũ khí, đạn dược, phương tiện chiến tranh của Quân Giải phóng là từ hậu phương miền Bắc đưa vào, góp phần hiệu quả phát triển nhanh chóng lực lượng chủ lực Quân Giải phóng miền Nam từ 10 trung đoàn (năm 1964) lên 5 sư đoàn, 11 trung đoàn và một số trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật vào năm 1965. Nhiều đơn vị chủ lực vừa từ miền Bắc vào phân thành các bộ phận nhỏ xuống cơ sở làm nhiệm vụ của du kích và bộ đội địa phương. Các chiến sỹ hành quân từ miền Bắc vào chi viện cũng sẽ thuộc biên chế của Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam, cùng tham gia sinh hoạt và chiến đấu, không có bất kỳ sự phân biệt vùng miền nào trong biên chế.

Tiếp đó, trong 3 năm (1969 – 1971), miền Bắc chi viện cho Quân Giải phóng miền Nam 162.501 người và 111.045 tấn vật chất[18], bàn giao cho các chiến trường khối lượng vật chất và nguồn lực con người tăng gấp 3 - 6 lần so với 4 năm trước đó[19]. Năm 1972, khối lượng vật chất vận chuyển cho các chiến trường miền Nam tăng 1,7 lần[20], bổ sung cho Quân Giải phóng 152.974 người. Giai đoạn 1973-1975, 50% số Quân Giải phóng miền Nam là lực lượng do miền Bắc tăng cường.

Song song với tuyến đường bộ vươn sâu xuống các mặt trận, tuyến đường ống cũng được khẩn trương xây dựng, lắp đặt để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về xăng dầu của chiến trường miền Nam. Nhờ tuyến đường ống, mùa Khô năm 1970 – 1971, miền Bắc chuyển vào chiến trường miền Nam khối lượng xăng dầu lớn gấp 10 lần mùa Khô 1969 – 1970[39]. Đến năm 1975, gần 5.000 km đường ống dẫn nhiên liệu lỏng với hệ thống trạm bơm, bể chứa tương đối hiện đại từ hậu phương miền Bắc, men theo các trục dọc Trường Sơn, vươn tới các chiến trường.

Đặc biệt, tháng 10-1962, tuyến vận tải hết sức đặc biệt của chiến tranh nhân dân Việt Nam chính thức khai thông. Từ thời điểm đó, vận tải đường Hồ Chí Minh trên biển được liên tục cải tiến mọi khâu, từ phương tiện, phương thức, đến đội ngũ và nguyên tắc vận chuyển; nhờ thế, vận hành ngày càng chủ động, hiệu quả. Trong suốt 14 năm liên tục (1961-1975), đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển đã vận hành "1.789 chuyến tàu không số, vận chuyển 150.000 tấn vũ khí trang bị và 80 lượt ngàn cán bộ, vượt qua hàng vạn hải lý, khắc phục hơn 400 quả thủy lôi, chống chọi hơn 20 cơn bão, chiến đấu 300 lần với tàu địch, đánh trả 1.200 lần máy bay địch tập kích, bắn rơi 5 chiếc và bắn cháy nhiều tàu, xuồng địch"[21][42] để chi viện kịp thời cho Quân Giải phóng miền Nam.

*                           *

*

Ra đời vào thời điểm cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng và to lớn, Quân Giải phóng miền Nam đã có mặt khắp các chiến trường Trung–Nam bộ, làm nên những chiến công hiển hách.

 Nhờ sự chi viện kịp thời, to lớn và hiệu quả của miền Bắc, Quân Giải phóng miền Nam đã tổ chức một số trận đánh lớn như Núi Thành (3 – 1965), Vạn Tường (8 – 1965), Plâyme (11 – 1965), Đất Cuốc, Bầu Bàng (11 – 1965), đánh bại các đơn vị tinh nhuệ lính thuỷ đánh bộ, kỵ binh không vận của Mỹ ngay khi mới đặt chân vào Việt Nam; nhanh chóng phát triển lực lượng tiến hành đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 – 1966), (1966 – 1967). Tiếp đó, từ Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đến Tổng tiến công và nổi dậy quy mô lớn vào mùa Xuân 1975, Quân Giải phóng đã đã làm tròn nhiệm vụ, sứ mệnh của mình. Từ đánh tập trung quy mô đại đội, Quân Giải phóng đã nhanh chóng tiến lên đánh tập trung quy mô tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn, nhiều sư đoàn đến quân đoàn và nhiều quân đoàn, nhuần nhuyến trong tác chiến hiệp đồng binh chủng, quân chủng. Từ khi ra đời (1961) cho đến khi cuộc đấu tranh thống nhất đất nước kết thúc (1975), Quân Giải phóng miền Nam đã làm rạng danh 7 chữ vàng “Giải phóng quân anh dũng chiến thắng” được in trên lá quân kỳ do Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trao tặng trong ngày thành lập. Trên những chặng đường hào hùng ấy, sự lớn mạnh không ngừng của Quân Giải phóng luôn có sự hỗ trợ, giúp đỡ tích cực của hậu phương lớn miền Bắc. Miền Bắc đã đồng hành cùng Quân Giải phóng miền Nam từ buổi đầu mới thành lập còn non trẻ cho đến ngày non sông thu về một mối.   



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 507.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 507.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam(2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 509.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22, Sđd, tr. 158.

[5] Điện của Quân ủy Trung ương ngày 31–1–1961, Lưu tài Văn phòng lưu trữ Trung ương Đảng.

[6] Theo Hiệp định Genève, chỉ có lực lượng quân sự chính quy phải tiến hành tập kết còn các lực lượng vũ trang tự vê, lực lượng chính trị và tuyên truyền được tập kết tại chỗ.

[7] Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Bộ Tổng tham mưu, hồ sơ 554 và 539.

[8] Trung tâm lưu trữ BộQuốc phòng, Tlđd, hồ sơ 554 và 539.

[9] Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Tlđd, hồ sơ 554.

[10]Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Tlđd, hồ sơ 723.

[11] Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng,phông Quân ủy Trung ương, hồ sơ 345.

[12]Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Tlđd, hồ sơ 326.

[13] Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Quân ủy Trung ương, hồ sơ 907.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22, Sđd, tr. 159.

[15] Lê Duẩn-Tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.314.

[16] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 – 1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.175.

[17] Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1991), Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.358

[18] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 – 1975), Sđd. tr. 177.

[19]  Dẫn theo Công tác vận tải quân sự chiến lược, Tài liệu lưu hành nội bộ của Tổng cục hậu cần, 1984, tr. 100.

[20] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2007), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 – 1975, Tập VII, Thắng lợi quyết định năm 1972, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 349.

[21] Mai Thắng,: Đường Hồ Chí Minh trên biển: 50 năm – huyền thoại một trường ca, Daidoanket.vn, ngày 13-7-2011.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!