PGS.TS. Hồ Khang
Viện Lịch sử quân sự Việt
Nam
Năm 1965, ngay khi Mỹ đưa quân trực vào miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, cùng với nỗ lực xây dựng sức mạnh về mọi mặt để có thể đương đầu với một đối thủ mạnh nhất hành tinh; đồng thời, nêu cao quyết tâm chiến đấu và chiến thắng, Đảng Lao động Việt Nam (Đảng LĐVN) đã tính đến việc đưa Mỹ vào cục diện “vừa đánh, vừa đàm”. Bắt đầu từ thời điểm đó, trong từng bước phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng LĐVN luôn phân tích tình hình, tìm kiếm và nắm bắt thời cơ nhằm tạo ra những bước ngoặt trên mặt trận quân sự, thúc đẩy thế đánh – đàm. Chiến dịch phản công Đường 9- Nam Lào (1971) chính là một sự kiện quan trọng, đưa đấu tranh ngoại giao phát triển lên một bước mới, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự thành công của sách lược “vừa đánh, vừa đàm” mà Đảng LĐVN đã dày công tính toán, chuẩn bị và dẫn dắt.
1. Sách lược vừa đánh, vừa đàm” của Đảng Lao
động Việt Nam
Trong hai năm (1965-1966), với những cố gắng to lớn, quân
và dân Việt Nam đã “đánh bại cuộc phản công
chiến lược mùa khô lần thứ nhất; liên tục tấn công để mở rộng thắng lợi
trong mùa mưa; bước đầu đánh bại cuộc "phản công chiến lược" mùa khô
thứ hai; đánh bại chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc trên âm mưu bản”[1] Thắng lợi những năm 1965-1966 không chỉ
đơn thuần là những thắng lợi về chiến thuật, chiến lược quân sự, mà còn là những
thắng lợi chính trị to lớn và ý nghĩa, có tác động kép, tác động, hình thành những
tiền đề cơ bản, vững chắc cho bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.
Nếu
như vào những năm1965-1966),
chưa có thời cơ để thực hiện
sách lược “đánh – đàm”, thì những thắng
lợi nói tên đã đã
khiến Mỹ “bị một đòn phủ đầu choáng váng hết sức bất ngờ”[2], tạo ra những thay đổi căn
bản để bước sang năm 1967, Đảng LĐVN quyết định mở mặt trận ngoại giao, kết hợp
đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, hình thành thế chiến lược tiến
công.
Tháng 1-1967, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 bàn về đẩy
mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch được tổ chức. Nhiệm vụ
trọng tâm của Hội nghị lần này là đưa chiến tranh cách mạng miền Nam sang một
giai đoạn mới - giai đoạn “ra sức đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh
chính trị ở miền Nam”[3].
Xác định “đấu tranh quân sự và đấu tranh
chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường,
làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao”[4], Hội nghị Trung ương lần thứ 13 chủ
trương phối hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đẩy mạnh hơn
nữa đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch về chính trị, vận dụng sách
lược vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh. Hội nghị giải thích: “Vận dụng sách
lược vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh có nghĩa là trong khi ở miền Nam vẫn
tranh thủ đánh để giành thắng lợi quyết định thì giữa ta và địch có thể nói
chuyện từ hình thức tiếp xúc cho đến hội đàm”[5]. Đây là một quá trình đấu tranh
hết sức phức tạp, gay go, khó khăn, gắn chặt với các mặt đấu tranh quân
sự, chính trị và ngoại giao. Do vậy, để thực hiện thành công sách lược “đánh –
đàm” đòi hỏi phải giữ vững tính nguyên tắc, song phải biết cơ động, linh hoạt,
lợi dụng mọi "kẽ hở" của đối phương; đồng thời, giữ vững độc lập, tự
chủ.
Trên tinh thần đó, ngay khi Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-1967) kết thúc, Việt
Nam tích cực đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhằm làm cho các nước
anh em, trước hết là Liên Xô,Trung Quốc hiểu, đi đến ủng hộ sách lược đánh –
đàm của Việt Nam. Đồng thời, để phát huy hiệu quả sách lược “đánh - đàm”, về
quân sự, Đảng LĐVN nhận thức rõ rằng điều cần thiết đối với
cách mạng miền Nam lúc này là phải tổ chức được những đợt hoạt động, những cuộc
tiến công quy mô chiến lược đủ sức làm xoay chuyển cục diện chiến trường. Những
đòn tấn công như vậy phải giáng một đòn vào ý chí xâm lược của Mỹ, tạo
điều kiện để đấu tranh ngoại giao trên bàn đàm phán Hội nghị Paris thực hiện
tốt các mục đích, yêu cầu đặt ra; trong đó, mục tiêu lớn nhất là buộc Mỹ rút
quân khỏi miền Nam. Chiến dịch phản công Đường 9- Nam Lào là một trong những nỗ
lực như vậy.
2. Chiến thắng Đường 9-
Nam Lào
Đầu năm 1971, do phản ứng dữ dội từ dư luận
trong nước và từ chính Quốc hội Mỹ, trước khi rút quân Mỹ ra khỏi các cuộc hành
quân ngoài biên giới miền Nam Việt Nam, Mỹ đã thúc ép Việt Nam Cộng hòa tiến hành một
cuộc tấn công xuyên biên vào Lào, hứa sẽ cung cấp các hỗ trợ không quân, pháo
binh và hậu cần. E ngại thương vong cao, chính quyền miền Nam Việt Nam đã miễn
cưỡng để Quân lực Việt Nam Cộng hòa tham gia một lần nữa vào các hoạt động quân
ở bên ngoài biên giới. Hăng hái hơn cả đồng minh của mình khi thúc ép mở cuộc tấn
công này, Tổng
thống R. Nixon đặt vào đó khá nhiều tham vọng, nhất là khi dốc lực
lượng tiến hành Cuộc hành quân Lam Sơn 719 có quy mô lớn nhất. Tổng thống Nixon tuyên bố rằng mục tiêu
của các hoạt động này là "vì một miền Nam Việt Nam ổn định"[6],
còn McCain gọi đây là "một cơ hội đặc biệt để gây ra thiệt hại tối
đa đối với nhân lực, vật chất và sức ép tâm lý của đối phương"[7]. Theo
phân tích của
Henry Kissinger thì mục tiêu chủ yếu của cuộc tấn công này là kiểm chứng khả
năng tác chiến độc lập của quân đội Sài Gòn; qua đó kiểm nghiệm kết quả của
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” sau hơn hai năm thực hiện; đồng
thời, hủy diệt tuyến đường vận tải huyết mạch – đường mòn Hồ Chí Minh với hy
vọng nếu “không còn đường mòn Hồ Chí Minh, hoặc bị gián đoạn chỉ trong một mùa
Khô, khả năng mở các cuộc tiến công lớn của Hà Nội ở miền Nam (và Campuchia) sẽ
giảm đi một cách đáng kể nếu không phải là bị loại trừ trong một tương lai vô
hạn định”[8].
Dù đã xác định những mục tiêu to lớn để làm xoay chuyển cục
diện cuộc chiến, xong hết sức lo ngại về phản ứng của Quốc hội Mỹ và công chúng
đối với chiến tranh, Tổng thống Nixon muốn cuộc tấn công được giới thiệu với
giới truyền thông như là một cuộc đột kích vào các khu vực đứng chân chiến lược
của lực lượng vũ trang Lào và Quân đội Bắc Việt.
Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), Hà Nội đã đưa
ra một phân tích sắc bén rằng, ngoài những mục tiêu cụ thể, về tổng thể, thông
qua cuộc tấn công này, Nhà trắng muốn chuyển đến cử tri Mỹ thông điệp về
tính khả quan của chiến tranh Việt Nam khi thời hạn bầu cử Tổng thống Mỹ (năm
1972) đang đến gần; đồng thời, làm suy yếu cuộc kháng
chiến chống Mỹ của nhân dân ba nước Đông Dương, tạo điều kiện thương lượng trên
thế mạnh, ép VNDCCH nhân nhượng trên bàn đàm
phán Hội nghị Paris, buộc Hà Nội phải chấp nhận một giải pháp chính trị có lợi
cho Mỹ”[9].
Từ việc nắm bắt chính xác những tính toán
của Nhà trắng, Bộ Chính trị Đảng LĐVN chỉ rõ trường hợp Mỹ và quân đội Sài
Gòn đánh ra Đường 9 chính là
thời cơ để thực hiện chiến dịch phản công, tiêu diệt đối phương, tạo ra sự
thay đổi trong cán cân lực lượng trên chiến trường có lợi cho cách mạng, tạo điều kiện cho cuộc đấu
tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris và bên ngoài Hội nghị.
Chiến dịch phản công Đường 9- Nam Lào bắt đầu ngày 30-1 và kết thúc vào ngày
23-3-1971,
diễn ra trong vòng hơn 50 ngày đêm. Đến đầu tháng 3-1971, Hà Nội dồn
dập đón tin thắng lợi.Quân giải phóng đã bẻ gãy hoàn toàn cánh quân phía Bắc
Đường 9 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tiêu diệt Lữ đoàn 3 dù, Thiết đoàn 17,
đánh thiệt hại nặng Liên đoàn 21 biệt động quân, phá vỡ kế hoạch thiết lập các
căn cứ hoả lực vừa bảo vệ sườn Bắc vừa chi viện cho cánh quân chủ yếu tiến
công lên Sê Pôn của đối phương. Quân giải phóng đã tiêu diệt lực lượng đối
phương ở điểm cao 723 - lực lượng mạnh nhất của Sư đoàn 1 quân đội Sài
Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho Sư đoàn 2 và các đơn vị bạn trong chiến dịch bẻ
gãy hoàn toàn cánh quân phía Nam Đường 9 của quân đội Sai Gòn khống chế được khu vực từ Sê Pôn đến Bản Đông; đồng thời, tiêu diệt tập
đoàn chủ yếu của đối phương trong cuộc hành quân ở Bản Đông. Quân đội
Sài Gòn bị tổn thất 21.102 lính, trong đó có 19.960 bị giết và bị thương, 556
máy bay bị bắn rơi và phá hủy, hàng ngàn xe cơ giới các loại, hàng trăm khẩu
pháo và súng cối hạng nặng cùng nhiều phương tiện chiến tranh khác bị phá hủy
và thu giữ[10].
Thắng lợi của chiến dịch phản công Đường 9
- Nam Lào đã “đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của ngụy quân trong chiến lược Việt
Nam hóa chiến tranh, đánh dấu bước thất bại nghiêm trọng của chiến lược này”[11]. Cuộc hành quân tràn trề hy vọng
của Mỹ biến thành “cuộc hỗn loạn Lam Sơn 719” với sự tổn thất to lớn
của quân đội Sài Gòn, đặt dấu chấm hết cho nỗ lực xây dựng “công thức chiến
thắng” của chính quyền Mỹ. Henry Kissinger đã phải cay đắng thốt lên: “Liệu Nam
Việt Nam có thực sự hiểu cái mà chúng ta đang cố gắng giành lấy không?”[12]. Thất bại của cuộc
hành quân Lam Sơn 719 trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng không chỉ của
quân đội Sài Gòn, mà còn của cả chính quyền Mỹ - điểm tựa và người bảo hộ cho
họ, đã cho thấy “quân đội Việt Nam cộng hòa là một quân đội mong manh một cách
tuyệt vọng”[13]. Thất bại nặng nề của
quân đội Sài Gòn dưới sự yểm trợ hùng hậu của hỏa lực Mỹ, phương tiện chiến
tranh Mỹ, cố vấn Mỹ “đã làm rung chuyển nước Mỹ, gây ra cho chúng những khó
khăn rất lớn về nhiều mặt”[14]; tạo ra “khả năng kéo Mỹ
xuống nữa để thắng một bước căn bản tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc
cách mạng miền Nam”[15].
3. Chiến thắng Đường 9- Nam Lào trong sách lược
“vừa đánh, vừa đàm” của Đảng Lao động Việt Nam
Trong lúc chiến dịch phản công Đường 9- Nam
Lào diễn ra, cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán Hội nghị Paris đang trong thế đàm
phán giằng co. Trước những thuận lợi do thắng lợi của chiến dịch Đường 9- Nam Lào đem lại, Đảng LĐVN nhận thức
muốn kéo Mỹ xuống, thúc đẩy sách lước “đánh, đàm” tiếp tục mang lại
những hiệu quả mới, “phải triển khai cuộc đấu tranh trên ba mặt trận quân sự,
chính trị, ngoại giao; dùng chính trị, ngoại giao kết hợp với quân sự để kéo Mỹ
xuống; kéo Mỹ xuống để quân sự đánh to thắng lớn thúc đẩy phong trào chính trị
trong nước Mỹ làm áp lực mạnh hơn buộc
chính quyền Mỹ phải từ bỏ xâm lược, chấm dứt chiến tranh”[16].
Thực hiện chủ trương trên, để dồn đối
phương vào thế khó khăn hơn, vừa có thể chủ động tạo và đón thời cơ kéo Mỹ
đi vào quỹ đạo đàm phán một cách thực chất, vượt ra khỏi cái
vòng luẩn quẩn, bế tắc, Hà Nội
mở
các đợt tấn công ngoại giao, nhằm gây một sức ép mạnh trong nước Mỹ, ngay cả
trong Thượng và Hạ nghị viện Mỹ để buộc Nixon phải đi đến có chủ trương dứt
khoát rút quân ra khỏi miền Nam và phải tuyên bố thời hạn rút quân; đồng thời, kéo
chính quyền Sài Gòn xuống một bước, buộc Mỹ phải đưa ra một chính quyền có thể
nói chuyện với VNDCCH[17]
Phát huy thắng lợi của chiến dịch phản công
Đường 9 – Nam Lào và những thắng lợi quân sự trong nửa cuối năm 1971, từ
tháng 7 cho đến tháng 12-1971, Hà Nội liên tục mở các đợt tấn công ngoại giao
quyết liệt hơn, nhằm đưa cuộc đàm phán đi vào thực chất, phản ánh đúng những
diễn biến quân sự trên chiến trường đang có lợi; đồng thời, kiên quyết làm thất
bại âm mưu của Mỹ coi nhẹ, hạ thấp vai trò của đàm phán Paris. Phái đoàn Hà Nội
đưa ra những sáng kiến mới như Sáng kiến hòa bình 9 điểm của Chính phủ Việt
Nam Dân chủ cộng hòa, tập trung vào các vấn đề như rút quân, thả tù binh,
chấm dứt ủng hộ chính quyền Thiệu – Kỳ - Khiêm, bồi thường chiến tranh, thực
hiện ngừng bắn sau khi ký kết Hiệp định, thực hiện chính sách đối ngoại hòa
bình… Có một điểm mới là những vấn đề nêu trên được thu hẹp trong phạm
vi miền Nam, nhằm tạo ra những bước đột phá mới trong đàm phán
và điều
đáng nói là mỗi sáng
kiến đưa ra đều kèm theo các giải pháp thực hiện. Đáng lưu ý là Sáng kiến 7 điểm gợi ý rõ một thời hạn rút quân
là trong năm 1971, gắn việc rút an toàn quân đội Mỹ và thả tù bình hai bên bắt
đầu cùng ngày và kết thúc cùng ngày; đồng thời, yêu cầu lập chính phủ hòa hợp
dân tộc rộng rãi ba thành phần, đề nghị vấn đề các lực lượng vũ trang ở miền
Nam sẽ do các bên Việt Nam cùng nhau giải quyết trên tinh thần hòa hợp dân tộc….
Trước thế khó trên chiến trường và các
đòn tấn công ngoại giao mềm dẻo nhưng cương quyết của Hà Nội, trước các sáng kiến của VNDCCH, mặc dù các đại
biểu phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn chưa hoàn toàn thể
hiện thái độ thiện chí, song, đâu đó đã lộ rõ ý muốn sớm giải quyết vấn
đề, tỏ ra có một số điểm mềm dẻo: Không nhắc đến vấn đề quân miền Bắc rút
khỏi miền Nam, đồng ý ngừng bắn sau khi có Hiệp định, giải quyết vấn đề tù
binh đồng thời với việc rút quân Mỹ và hé lộ sẽ có viện trợ không
hoàn lại đáng kể sau chiến tranh. Nhìn chung, trong năm bản lề 1971, Hà
Nội“chủ yếu xoáy vào hai điểm chính: Vấn đề rút quân Mỹ và vấn
đề thay thế chế độ Thiệu”[18].
Nhằm “tranh thủ rộng rãi hơn nữa sự đồng
tình ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân
dân ta và qua đó góp phần phát triển hành động chung của nhân dân thế giới
chống đế quốc Mỹ xâm lược và ủng hộ Việt Nam”[19],bên
cạnh cuộc đấu tranh trực tiếp với Mỹ trên bàn đàm
phán, VNDCCH còn tiến hành những hoạt động đối ngoại phong phú bên
ngoài Hội nghị, đặt trọng tâm vào việc tố cáo tội ác của Mỹ, âm mưu của Mỹ
- Thiệu kéo dài chiến tranh, cũng như chỉ rõ những thất bại của Mỹ trên chiến
trường Đông Dương.
Không lâu sau khi Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện cuộc
hành quân Lam Sơn 719, Bộ Chính trị đã chỉ thị:
“Cần gây nên một phong trào mạnh mẽ chống hành động phiêu lưu quân sự của
Mỹ và Thiệu - Kỳ đưa quân đi đánh ở Lào, ở Campuchia kết hợp các khẩu hiệu đòi
hoà bình dân chủ và dân sinh, đòi Mỹ rút quân”[20]. Có một thuận lợi lớn là dù bộ máy
tuyên truyền của Sài Gòn đưa tin rùm beng về thắng lợi của Quân lực
Việt Nam Cộng hòa trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, nhưng
các ký giả mặt trận Anh, Mỹ theo sát các cuộc hành quân của Quân
đội Sài Gòn đã truyền tải đầy đủ sự thật về thất bại của Quân đội Việt Nam
cộng hòa – một cuộc “tháo chạy trong hoảng loạn”. Vô số những dòng tin
như: “Quân lính Nam Việt Nam khiếp sợ, phải đánh lẫn nhau giành chỗ khi máy bay
đáp xuống để nhặt người bị thương”[21]; hay: “Số quân tinh nhuệ Sài
Gòn quá tuyệt vọng không còn cách nào khác là liều mạng bám vào càng máy bay
lên thẳng để dời khỏi trận địa”[22]; hoặc: “Thiệt hại thật
khủng khiếp. Phía Mỹ và Nam Việt Nam ước tính thương vong gần 50% tổng số lực
lượng tham gia cuộc hành quân”[23] … đã bóc trần những thất bại mà chính
quyền Mỹ đang cố công che đậy, làm bùng lên một làn sóng phẫn nộ trong lòng
nước Mỹ về những hứa hẹn thắng lợi giả tạo của “Việt Nam hóa chiến tranh” mà
Tổng thống R.Nixon vẫn luôn tô vẽ để trấn an người Mỹ. Nhà sử học Mỹ Joseph A.
Amter mô tả “Cuộc xâm chiếm là một thất bại và cuộc rút lui của quân đội Việt
Nam cộng hòa là một cuộc tháo chạy... Điều nhục nhã này đã được hàng triệu
người Mỹ xem trên màn ảnh truyền hình”[24]. Chính Tổng thống R. Nixon cũng phải
thừa nhận rằng, tin tức báo chí, truyền hình về cuộc rút lui đã làm tinh thần ở
miền Nam Việt Nam rệu rã, còn ở Mỹ dấy lên những nghi ngờ về khả năng leo thang
và những tin tức đó “đã làm giảm lòng tin vào thắng lợi của Việt Nam hóa và
triển vọng chấm dứt chiến tranh”[25], khiến “lương tâm người Mỹ nổi giận”.
Nhân cơ hội này, hai Đoàn Ngoại giao Việt
Nam (CPCMLTCHMNVN và VNDCCH) đã họp báo, vạch rõ thực chất của cái gọi là “Việt
Nam hóa chiến tranh” và bày tỏ lòng công phẫn trước số phận của binh lính Sài
Gòn bị ném vào chỗ chết để Tổng thống R.Nixon thể nghiệm chiến lược của ông ta.
Nhằm vận động dư luận ủng hộ lập trường của Việt Nam, các Đoàn Ngoại
giao VNDCCH đã đi thăm các nước châu Âu như Anh, Thụy Điển, Hà
Lan, Đan Mạch, Italia…, gặp gỡ các tổ chức, các nghị sĩ và nhân sĩ chống chiến
tranh, tiếp xúc với báo giới, trả lời phỏng vấn, nói chuyện với sinh viên, gặp
gỡ kiều bào… tuyên truyền về thắng lợi quân sự trên chiến trường, về về cuộc
hành quân Lam Sơn 719 đã “chuyển thành một thất bại khổng lồ cho ý đồ của chính
quyền Mỹ và cho các kế hoạch họ đã vạch ra cho Việt Nam cộng hòa”[26], cũng như về sự phá sản hoàn toàn không
gì cứu vãn được của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Những hoạt động này
đã làm bùng nổ một làn sóng chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam rộng khắp, dấy
lên phong trào lên án giới cầm quyền Mỹ, thúc đẩy nhân dân Mỹ chống chiến
tranh, làm rung động Nhà Trắng.
* *
*
Cuộc hành quân Lam Sơn
719 chứa
đầy những kỳ vọng của chính quyền Mỹ đã đi vào lịch sử những cuộc chiến tranh
mà người Mỹ theo đuổi ở bên ngoài biên giới nước Mỹ như một dấu ấn đen tối, một
“cuộc dạo chơi xuống địa ngục”[27]. Thất bại của Nhà trắng cũng là cơ hội
để Hà Nội thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện sách lược đánh - đàm; sử dụng thắng
lợi quân sự để thúc đẩy và đi tới thắng lợi trên bàn đàm phán. Mềm dẻo điều
chỉnh các điều kiện, yêu cầu đàm phán, sau thắng lợi mang tính chiến lược của
chiến dịch phản công Đường 9 – Nam Lào năm 1971, các hoạt động ngoại giao của Hà
Nội đã thúc đẩy cuộc “Hòa đàm thế kỷ” tiến triển sau rất nhiều bế tắc, bước vào
giai đoạn đàm phán thực chất. Sự kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa các đòn tấn công
quân sự và các cuộc đấu tranh ngoại giao của Hà Nội đã tạo cục diện đan xen giữa đánh và đàm một
cách tài tình, mang lại những hiệu quả to lớn, bồi đắp thế và lực mới cho cuộc
kháng chiến, chống Mỹ cứu nước đang đi gần đến hồi kết thúc.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tập 28, tr. 87.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, tập 28, tr. 89.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, tập 28, tr. 170.
[4] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 170.
[5] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 123.
[6] Vietnam War - 1971 - Laotian
Incursion / LAM SON 719, Globalsecurity.org,
[7] Vietnam War - 1971 - Laotian
Incursion / LAM SON 719, Ibid.
[8] Henry Kissinger, Những năm ở Nhà trắng (1968 - 1973),
Trung tâm Thông tin Khoa học quân sự - Bộ Quốc phòng, Sao lục, 1981, tr.209.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 32, tr. 350.
[10] Bộ Quốc phòng, Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch phản công Đường số 9-Nam Lào năm
1971, Hà Nội, 1987, tr. 61- 62.
[11] Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực
thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng
lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995. tr. 32
[12] Henry Kissinger, Những năm ở Nhà trắng (1968 - 1973),
Sđd, tr. 241-242.
[13] Gabriel Kolko, Giải phẫu một cuộc chiến tranh,
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr. 446.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, tập 32, tr. 195.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, tập 32, tr. 366.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, tập 32, tr. 366-367.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, tập 32, tr. 409-410.
[18] Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê
Đức Thọ - Kisinger tại Paris, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002, tr. 178.
[19] Xuân Thủy, “Một số vấn đề về Hiệp định Paris”, Tạp
chí Lịch sử Đảng, số 1-2008, tr.7.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, tập 32, tr. 248.
[21] Tin Mĩ và thế giới, ngày 5-4- 1971
[22] Roitơ, ngày 28- 3 – 1971.
[23] Thời báo (Mỹ) ngày 5-4-1971
[24] Giô-dép A. Am-tơ: Lời phán quyết về Việt Nam,
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr. 323-324.
[25] Giôdep A. Amtơ, Lời phán quyết về Việt Nam, Sđd,
tr.325.
[26] Gabriel Kolko, Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb.
Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2003, tr.430.
[27] Gloria Emerson, To hell and back…The Straits
Times, ngày 30-3-1971.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!