PGS.TS. Hồ Khang
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
Cùng nằm trên bán đảo Đông Dương, cùng uống chung dòng nước ngọt ngào của sông Mê Kông, cùng tựa lưng vào dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, có những nét lịch sử - văn hóa tương đồng, Việt Nam và Campuchia sớm có mối quan hệ mật thiết, máu thịt. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, với đặc thù Đông Dương là một chiến trường, nhân dân hai nước Việt Nam, Campuchia đã sát cánh cùng nhau chung một chiến hào để bảo vệ nền độc lập vô giá. Tuy nhiên, từ sau năm 1975, dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan, chủ quan khác nhau, hai dân tộc bước vào một ngã rẽ không mong muốn.
Ngược dòng lịch sử, trong cả
hai cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và lần thứ hai, nhân dân hai nước
Việt Nam, Campuchia đã sát cánh cùng nhau chung một chiến hào để bảo vệ nền độc
lập vô giá. Xác định Đông Dương là một chiến trường, “đứng trên lập trường lợi
ích chung mà hợp
tác lâu dài”[1],
Việt Nam đặc biệt chú trọng đoàn kết với nhân dân Campuchia, chủ trương củng cố
liên minh chiến đấu với nhân dân Campuchia để kháng chiến giành độc lập và thống
nhất thật sự[2].
Trải qua một chặng đường dài đấu tranh hết sức gian khó với rất nhiều hy sinh
xương máu, năm 1975, hòa bình đã được thiết lập trên bán đảo Đông Dương, các
dân tộc Đông Dương đã được hưởng một nền độc lập thực sự, cùng có cơ hội tiến
lên trên con đường xây dựng đất nước, xây dựng Đông Dương tiến bộ và thịnh vượng.
Tuy nhiên, khi khả năng phát triển, vận hội mới đang mở ra trước các
dân tộc Đông Dương, thì nhân dân Campuchia lại phải hứng chịu những thử thách
khắc nghiệt: Tập đoàn Polpot - Iengxari dựng lên một chế độ diệt chủng
kỳ quái, phi nhân tính có một không hai trong lịch sử. Dưới bàn tay tàn bạo của
tập đoàn Polpot – Iengxari, dấu ấn của một đất nước hiền hòa, thân thiện đã
hoàn toàn biến mất, ốc đảo thanh bình với nền văn minh Ăngko rực rỡ bị biến thành
một trại khổ sai khổng lồ, biệt lập, đầy rẫy những hố chôn người, một đống
đổ nát, hoang tàn đầy u ám và chết chóc.
Trước
sự áp bức tàn bạo của Khơ me đỏ, nhân dân Campuchia đã không thể ngồi im, đã
nổi dậy hành động để bảo vệ mạng sống của mình, các cuộc phản kháng nổ ra ở
nhiều vùng miền[3]. Trong khi các lực lượng trong nước nổi dậy chống chế độ
Pôn Pốt - Iêng Xari, một bộ phận khác gồm lực lượng cách mạng và nhân dân
Campuchia đã nhanh chóng chuyển sang nhiều vùng biên giới Tây Nam Việt Nam để
tránh khỏi tổn thất do các cuộc đàn áp của chính quyền Pôn Pốt gây ra. Đây là một lực lượng khá lớn,
lên tới hơn 10 vạn người Campuchia, trong đó có nhiều cán bộ, đảng
viên[4]. Từ năm 1977, trước tình hình người Campuchia bỏ sang Việt Nam lánh nạn
ngày càng đông, theo yêu cầu của lực lượng cách mạng Campuchia, “Quân ủy Trung
ương và Bộ Quốc phòng Việt Nam giao nhiệm vụ
cho Bộ Tư lệnh Quân khu 7 thành lập một đơn vị (tương đương cấp tiểu đoàn) làm
nhiệm vụ giúp đỡ những người Campuchia chạy lánh nạn sang Việt Nam”[5]. Đoàn 977 trực thuộc Cục Chính trị Quân khu ra đời nhằm thực hiện nhiệm vụ
đó và đã tiếp nhận, tuyển chọn, huấn luyện số lượng ngày càn đông người
Campuchia yêu nước từng bước tổ chức thành các khung trung đội, đại đội.
Trên
cơ sở lực lượng cán bộ, chiến sĩ yêu nước người Campuchia được tập hợp, huấn
luyện và tổ chức lại ngày 12-5-1978, tại ấp Suối Râm, xã Long Giao, huyện Cẩm
Mỹ, đơn vị tiền thân của lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước
Campuchia - Đoàn 125 được thành lập, do ngài Hun Sen làm Chỉ huy trưởng, gồm 125 cán bộ, chiến sĩ - đây là đơn vị tiền thân đầu tiên của Quân đội
cách mạng Campuchia. Lực
lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia được xây dựng với mục tiêu
phải “nhận thức đúng kẻ thù trong và ngoài nước; phải có
quyết tâm cách mạng, dũng cảm chiến đấu và đoàn kết thống nhất nội
bộ, hòa hợp dân tộc trong nội bộ Campuchia; phải có tinh thần đoàn
kết quốc tế vô sản, đặc biệt giữ vũng tình đoàn kết keo sơn ba nước
Đông Dương”[6]. Trong hai ngày mùng 8 và mùng
9-6-1978, trên địa bàn Quân khu 7, Việt Nam
đã giúp Campuchia thành lập 6 đội vũ trang cách mạng cứu nước (mỗi đội từ 12 đến
15 người). Bộ đội địa phương cũng được xây dựng: Tại tỉnh
Côngpông Chnăng đã xây dựng 2 tiểu đoàn
bộ đội địa phương, tỉnh Puốcxát xây dựng được 17 đại đội với tổng số quân là
3.456, người trang bị 1.827 súng[7]. Các đơn vị dân quân, du kích được huấn luyện 10 ngày, bộ đội địa phương
được huấn luyện 2 tháng; cán bộ trung đội, đại đội của Campuchia đều được tập
huấn về chỉ huy và chuyên môn[8]. Các đội vũ trang này đã phối hợp
với lực lượng cách mạng trong nội địa Campuchia truyên truyền giác ngộ cho nhân
dân về đường lối, chủ trương của Mặt trận, về tội ác diệt chủng của tập đoàn Polpot - Iengxari, vận động thanh niên tham gia lực lượng vũ
trang cách mạng chống lại chế độ Polpot.
Trước yêu cầu phát triển của lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước
Campuchia, ngày 16-6-1978, tại suối Râm, Quân khu 7, đã khai giảng lớp huấn luyện
quân sự giúp Campuchia. Lực lượng tham gia huấn luyện gồm 2 tiểu đoàn bộ binh,
3 đại đội đặc công, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội thông tin, 1 đại đội hoả lực,
2 đại đội công binh và vận tải với thời gian huấn luyện 35 ngày[9]. Tháng 7-1978, trường Hạ sĩ quan Quân khu 7 khai giảng lớp đào tạo hạ sĩ quan đầu
tiên cho Campuchia gồm 202 hạ sĩ quan, chiến sĩ[10]. Trong 30 ngày, các học viên học các bài cơ bản về
kỹ thuật, chiến thuật bộ binh; sử dụng các loại vũ khí có trong biên chế và
công tác quản lý, chỉ huy tiểu đội, trung đội. Tháng 9 năm 1978, lực lượng trinh sát của Việt Nam bắt liên lạc được với lực
lượng ly khai Vùng 20 của ông Chia Xim và lực lượng của ông Hêng Xomrin
(nguyên ủy viên Khu ủy Miền Đông, Sư đoàn trưởng kiêm Chính ủy Sư đoàn 4). Lực
lượng này có hơn 400 quân và hàng vạn dân đi theo xin sang lánh nạn ở Việt
Nam, trong đó có nhiều người tình nguyện được tham gia lực lượng vũ trang cách
mạng để trở về giải phóng đất nước khỏi hoạ diệt chủng Pôn Pốt khi có thời cơ,
trở thành một trong những nguồn quan trọng bổ sung, từng bước nâng cao số lượng
cán bộ, chiến sĩ của lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia.
Được
sự giúp đỡ của Việt Nam, lực lượng vũ trang cách
mạng đoàn kết cứu nước Campuchia nhanh chóng phát triển: Nếu tháng 7 năm 1978, lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia có 1 tiểu
đoàn gồm 5 đại đội và 17 đội công tác (tổng số 600 người)[11], thì đến tháng 12-1978, lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước
Campuchia đã có 22 tiểu đoàn bộ binh, 69 đội vũ trang vận động quần
chúng[12]. Lực
lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia được hình thành chủ yếu từ lực lượng thanh niên khoẻ mạnh trong số dân tạm
lánh sang Việt Nam có giác ngộ chính trị, căm ghét chế độ diệt chủng Pôn Pốt,
có tinh thần yêu nước.
Không chỉ hành xử man rợ
với đồng bào mình, dân tộc mình, tập đoàn Polpot - Iengxari còn hết sức hiếu
chiến. Với nước láng giềng Việt Nam đã từng "tối lửa, tắt đèn có
nhau", Chính quyền Polpot tiến hành các cuộc xâm lấn, đánh chiếm biên
giới trong thời gian dài với cường độ, tần suất ngày càng gia tăng, tiến hành loạt
các cuộc tàn sát, thảm sát dọc biên giới Việt Nam – Campuchia, ảnh hưởng trực
tiếp đến hòa bình, ổn định trên toàn cõi Đông Dương cũng như trong khu vực. Dù
mọi hành động của Chính quyền Polpot đã vượt quá giới hạn, song vì mục
tiêu gìn giữ hòa bình, gìn giữ quan hệ láng giềng hòa hiếu, gìn giữ tình hữu
nghị giữa hai dân tộc, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn cố gắng, nỗ lực đàm phán,
giải quyết bằng con đường thương lượng hòa bình, song mọi nỗ lực của Việt Nam
đều rơi vào vô vọng. Chính quyền Polpot liên tục khước từ và không ngừng mở
rộng phạm vi đánh phá, tấn công các điểm dân cư dọc biên giới hai nước. Ngày
31-12-1977, Chính quyền Polpot chính thức cắt quan hệ ngoại giao với Việt Nam,
rút Đại sứ quán Campuchia ở Hà Nội và yêu cầu tất cả cán bộ ngoại giao của Việt
Nam ở Phnôm Pênh về nước.
Như đã nói ở trên, từ
chối những đề nghị của Việt Nam về giải
quyết vấn đề biên giới bằng đàm phán, thương lượng, chính quyền Campuchia đẩy mạnh tiến công quân sự xâm chiếm
biên giới của Việt Nam. Trước việc Pônpốt tăng cường chiến tranh xâm lược và Trung
Quốc gây căng thẳng ở biên giới phía Bắc, để tránh khả năng xảy ra chiến tranh
xâm lược từ hai hướng chiến lược, Việt Nam quyết tâm và tích cực chuẩn bị giải
quyết sớm cuộc chiến tranh ở hướng Tây Nam. Cùng lúc, ngày
26-12-1978, Bộ Chỉ huy lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia, Mặt
trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia[13] quyết
định phát động phong trào nổi dậy của quần chúng; đồng thời, kêu gọi nhân dân
Việt Nam giúp đỡ tiêu diệt chế độ diệt chủng.
Trong khi đó, cuối
tháng 12-1978, chính quyền Polpot bố trí 19 sư đoàn bộ binh (trên tổng số 23 sư đoàn) dọc biên giới Việt
Nam- Campuchia, phục vụ cho kế hoạch tiến công trên toàn tuyến biên giới. Trước
tình thế khẩn cấp đó, từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 8 tháng 12-1978, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Quân uỷ Trung ương họp, thông qua lần cuối
quyết tâm chiến lược và kế hoạch giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt
chủng Polpot. Với quyết tâm “đánh đổ
tập đoàn phản động Campuchia, làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn làm lại cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân”[14], Bộ Tổng tham mưu dự kiến tiến
hành tổng phản công, mở 3 chiến dịch đồng thời và kế tiếp nhau, với phương châm
“nhanh, gọn, không ồn ào, bí mật, bất ngờ, không để lộ quân ta”[15]. Bộ Tổng tham mưu cũng chủ trương: “Trong khi thực hiện
phải chuẩn bị tốt cả về quân sự và chính trị, đánh thắng nhanh, gọn, lực lượng
bạn quyết định cuối cùng, tuy lực lượng ta rất quan trọng”[16].
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
trên, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định sử dụng 18 sư đoàn của các
Quân đoàn 2, 3, 4; lực lượng vũ trang các Quân khu 5, 7, 9, cùng 600 xe tăng,
xe thiết giáp, 173 máy bay các loại, 160 tàu thuyền chiến đấu và vận tải, 7.000
ôtô với tổng số 25 vạn quân do Tổng tham
mưu trưởng trực tiếp chỉ huy. Lực lượng nói trên cùng với lực lượng vũ trang
cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia đã tiến hành các chiến dịch quân sự dọc
biên giới Việt Nam – Campuchia và đã kiểm soát một vùng đệm dọc biên giới trong
lãnh thổ Campuchia, từ Mimot đến Snuol ở các tỉnh Kampong Cham, Kratié và một
vùng rộng thuộc lãnh thổ Campuchia dọc theo Đường 19[17].
Từ cuối tháng 12-1978 đến đầu tháng
1-1979, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước
Campuchia đã tiến hành phản công trên toàn bộ mặt trận, đẩy lùi quân
Khmer Đỏ. Trước sức mạnh tiến công của Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang
cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia, ngày 4-1-1979, Polpot ra lệnh rút khỏi Phnom Penh, liền sau đó, tập đoàn Polpot
- Iengxari, cố vấn Trung Quốc và các đoàn ngoại giao rút khỏi Phnom
Penh; đồng thời, kêu gọi sự giúp đỡ của Liên hợp quốc. Ngày 6 tháng 1 năm 1979,
Polpot yêu cầu Sihanouk giúp đỡ,
thông qua tiếng nói của Xihanúc để cứu vãn tình thế. Cùng ngày, gia đình Sihanouk
và Pennút được Trung Quốc đưa máy bay xuống sân bay Pochentong đón đi Bắc Kinh.
Theo dõi chặt chẽ những diễn biến mau lẹ và chớp thời cơ thuận lợi ở chiến trường,
Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Tiền phương Bộ Tổng tư lệnh chỉ
huy các lực lượng kiên quyết, nhanh chóng đánh chiếm Thủ đô Phnom Penh trước
khi Hội đồng bảo an Liên hợp quốc họp vào ngày 9 tháng 1 năm 1979.
Thực hiện quyết tâm đó, ngày 6-1-1979, cùng với cùng với lực lượng vũ trang
cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam vượt sông Mekong qua ngả Neak
Luong và bắc Kompong Cham, chia thành hai gọng kìm tiến vào Phnom Penh từ phía
Đông Nam và phía Bắc. cuối ngày 7 tháng 1 năm 1979, Phnom Penh được giải
phóng và ngay sau khi chiếm được Phnom
Penh, ngày 8 tháng 1 năm 1979, Mặt trận đoàn kết dân
tộc cứu nước Campuchia tuyên bố thành lập nước Cộng hoà
nhân dân Campuchia và Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia, Chủ tịch
Hiêngxomrin gửi điện cho Tổng thư Ký Liên hợp quốc khẳng định vai trò quản lý đất
nước của Chính quyền mới. Tiếp đó, ngày 10 tháng 1 năm 1979, Hội đồng nhân dân
cách mạng Campuchia tuyên bố chính sách đối nội, đối ngoại, khẳng định quyền đại
diện chân chính, hợp pháp duy nhất của nhân dân Campuchia.
Tính đến ngày 17 tháng 1 năm 1979,
toàn bộ các thị xã, thị trấn, các sân bay, bến cảng, các trục giao thông, toàn
bộ đất nước Campuchia, đại bộ phận các vùng nông thôn đã thoát khỏi chế độ diệt
chủng Polpot - Iengxari. Trong cuộc Tổng
phản công bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và giúp nhân dân Campuchia thoát
khỏi hoạ diệt chủng, từ ngày 23 tháng 12 năm 1978 đến ngày 17 tháng 1 năm 1979,
lực lượng vũ trang Việt Nam kết hợp với lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước
Campuchia đã tiêu diệt và làm tan rã 18 sư đoàn của tập đoàn Polpot
- Iengxari, trong đó có 5 sư đoàn bị xoá sổ, diệt 12.000 binh lính,
bắt 8.800 tên, gọi hàng 3.200 tên, 44.000 tên tan rã tại chỗ; giải phóng trên 3
triệu dân Campuchia, thu hồi toàn bộ cơ sở vật chất và kỹ thuật quân sự của tập
đoàn Polpot - Iengxari ở các thành phố,
thị xã, sân bay, bến cảng, đập tan bộ máy thống trị của Polpot
- Iengxari từ Trung ương đến cơ sở. Đã thu 31.000 khẩu súng cùng với
40.000 khẩu thu ở các kho tại Phnom Penh[18], nâng tổng số lên 71.000 khẩu súng các loại (trong đó có 460 khẩu pháo);
ngoài ra, còn thu được 1.000 ôtô, 180 xe tăng, xe thiết giáp, 40 máy bay, 60
tàu thuyền chiến đấu các loại, 2.700 tấn đạn và nhiều lương thực, thực phẩm
khác[19].
Cần phải nói thêm rằng, dù lực lượng Polpot bị đánh bại nhưng vẫn còn ẩn náu khu vực biên giới Campuchia – Thái Lan. Polpot bảo toàn được cơ quan đầu não và 2 phần 3 lực lượng vũ trang và lập kế hoạch
tiến hành chiến tranh du kích. Cuối năm 1980, đầu năm 1981, sau hơn một năm rút
lực lượng chủ lực còn lại lên đứng chân ở biên giới giáp Thái Lan, Polpot tiến hành củng cố, bổ sung thêm quân số, trang bị cho các sư đoàn chủ lực,
đưa một bộ phận lớn lực lượng (khoảng 1/3 quân chủ lực) vào các địa bàn xung yếu
của 7 tỉnh biên giới phía Tây nhằm xây dựng các “căn cứ lõm” trong dân, đồng thời
đẩy mạnh hoạt động du kích ở 12 tỉnh nội địa, gây khó khăn trực tiếp cho cách mạng
Campuchia, cho nhân dân Campuchia trong công cuộc tái thiết đất
nước.
Để bảo vệ vững chắc thành quả của "cuộc cách mạng làm
lại", đảm bảo an ninh, đảm bảo cho nhân dân Campuchia xây dựng
đất nước trong hòa bình, một yêu cầu được đặt ra là lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu
nước Campuchia cần phải nhanh chóng phát triển và trở nên vững mạnh, trở thành
nòng cốt quan trọng cho Quân đội nước Cộng hoà nhân dân Campuchia. Đáp ứng
yêu cầu đó, lực lượng vũ trang Campuchia được xây dựng
theo phương hướng: 1- Có ba thứ quân, được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và
toàn diện của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia; 2- Xây dựng lực lượng bộ binh
làm chính; xây dựng quân binh chủng và cơ sở đảm bảo cần thiết; 3- về quy mô, Lấy
cấp tiểu đoàn và trung đoàn làm chính, tổ chức một số sư đoàn để sau này thay
thế quân tình nguyện ở một số hướng trọng điểm; xây dựng từ thấp lên cao, theo
trình độ chỉ huy và sức chiến đấu của bộ đội.
Cơ quan Bộ Quốc
phòng của Campuchia cũng được xây dựng theo ba bước lớn: 1- Tập hợp cán bộ của
lực lượng vũ trang, bồi dưỡng nâng cao trình độ về quân sự; 2- Cơ quan Bộ Quốc
phòng làm việc theo chức trách, nâng cao trình độ kiểm tra đôn đốc thực hiện về
quân sự; đồng thời, nhanh chóng kiện toàn cơ quan về tổ chức để đủ điều kiện
lãnh đạo, chỉ huy từ trên xuống; 3- Lực lượng vũ trang Campuchia đủ sức tự làm
công tác vận động quần chúng, làm chủ nội địa và phần lớn biên giới, tiến tới tự
đảm đương nhiệm vụ của mình. Phía Việt Nam cũng chủ trương: “Hết sức giúp Campuchia về xây dựng lực
lượng vũ trang, đặc biệt là về đào tạo cán bộ, giáo dục chính
trị, bảo đảm hậu cần, làm cho các lực lượng quốc phòng và an ninh
của hai nước trưởng thành nhanh chóng, dân dần tự đảm đương được
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và giữ vững an ninh”[20]. Trải qua một khoảng thời gian dài, với những nỗ lực
và cố gắng cao độ, lực lượng vũ trang Campuchia đã đủ vững mạnh để đảm nhận nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho Quân tình nguyện Việt Nam được rút về nước vào tháng 9-1989.
Như vậy, dưới ngọn cờ của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia, lực lượng vũ trang vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia đã
cùng quân tình nguyện Việt Nam tiến hành các chiến dịch quân sự, không chỉ đánh
tan lực lượng của chính quyền Polpot, xóa bỏ một chế độ phi nhân tính nhất
trong lịch sử loài người, giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh vào ngày 7-1-1979,
mà còn tiếp tục truy quét tàn quân Polpot, bảo vệ đất nước. Quá trình xây dựng,
phát triển và trưởng thành của lực lượng vũ trang vũ trang cách mạng đoàn kết
cứu nước Campuchia là một quá trình nỗ lực không ngừng, đi từ không đến có; đi
từ nhỏ đến lớn; đi từ yếu đến mạnh và in đậm những dấu ấn lòng yêu nước và tình
hữu nghị.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 12, tr. 441-442.
[2] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 12, tr. 148.
[3] Từ năm 1975, trên địa bàn các tỉnh
Đông Bắc Campuchia đã có các nhóm ly khai hoạt động chống lại chế độ Pôn Pốt.
Nhân dân huyện Tà Veng (55A), huyện Vươn Sai (tỉnh Ráttanakiri), dưới sự lãnh đạo
của ông Bu Thoong và ông Bun Mi, đã nổi lên chống lại chế độ Pôn Pốt - Iêng
Xari. Các ông Bu Thoong, Bun Mi cùng Thoong Bay (Huyện ủy viên huyện 52T), ông
Sươn Huyện ủy viên (huyện 55B), ông Khăm
Phun (Bí thư xã Vươn Sai) đứng ra vận động, tập hợp hơn 4.000 người, lựa chọn
xây dựng được 5 trung đội vũ trang làm nòng cốt xây dựng căn cứ U-pứng, sát
biên giới Việt Nam. Ông Soi Keo được giao phụ trách 5 trung đội vũ trang công
tác, cùng Thoong Bay phụ trách các tổ chức
quần chúng nhân dân đánh địch, bảo vệ căn cứ . Cùng
với phong trào nổi dậy ở các tỉnh Đông Bắc, ở nhiều nơi khác, dưới sự lãnh đạo
của những người yêu nước cách mạng, binh lính và quần chúng nhân dân Campuchia
cũng liên tiếp đứng lên đấu tranh chống lại chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari và
thu được một số kết quả [Bộ Quốc
phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng
Campuchia (1978-1989), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr.32-33).
[4] Tình
hình Campuchia, tư liệu lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông
82, ĐVBQ 2316, tr. 134.
[5] Bộ Quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử nguyện quân tình và
chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978 - 1989), Sđd, tr.36.
[6] Bộ Quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử nguyện quân tình và
chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978 - 1989), Sđd, tr.41.
[7] Tình hình địch từ tháng 12/1980 đến tháng 4/1981, Tài liệu lưu tại Cục
Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu KC-655.
[8] Bộ Quốc phòng - Cục đối ngoại: 45 năm Cục đối ngoại Bộ quốc phòng (1964 - 2009), Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.189.
[9] Bộ Quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử nguyện quân tình và
chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978 - 1989), Tlđd, tr.45.
[10] Bộ Quốc phòng - Viện lịch sử quân sự
Việt Nam: Lịch sử nguyện
quân tình và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978 -
1989), Tlđd, tr.45.
[11] Bộ Quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử nguyện quân tình và
chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978 - 1989), Tlđd, tr.41.
[12] Bộ Quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử nguyện quân tình và
chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978 - 1989), Tlđd, tr.47.
[13] Mặt trận đoàn kết dân tộc
cứu nước Campuchia ra đời tháng 12-1978. Đại hội thành
lập Mặt trận thông qua Cương lĩnh chính trị 11 điểm, ra lời kêu gọi nhân dân
Campuchia đoàn kết đấu tranh đánh đổ chế độ diệt chủng Polpot.
[14] Dự thảo kế hoạch sẵn
sàng chiến đấu của Bộ Tổng tham mưu,
số 56, ngày 10-10- 1978.
[15] Dự
thảo kế hoạch sẵn sàng chiến đấu của Bộ Tổng tham mưu, Tlđd.
[16] Dự
thảo kế hoạch sẵn sàng chiến đấu của Bộ Tổng tham mưu, Tlđd.
[17] Nayan Chanda, Brother Enemy:The War after the War, Harcourt Brace Jovanovich, 1986,
p.339.
[18] Báo cáo số 78/TP-TM của
Tiền phương Bộ Tổng tham mưu,
lưu tại Bộ Tổng tham mưu.
[19] Báo cáo số 78/TP-TM của
Tiền phương Bộ Tổng tham mưu,
Tlđd.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 44, tr.129.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!