PGS.TS Hồ Khang
Viện lịch sử Quân sự Việt Nam
Tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trong
điều kiện bị bao vây bốn bề, nhân dân Việt Nam luôn nêu cao tinh thần “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mạnh là chính”; “muốn người ta
giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình”[1];
đồng thời, hết
sức coi trọng liên minh, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Từ năm 1950, thế và lực của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp có những biến đổi tích cực, tạo điều kiện cho Việt Nam tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Từ thời điểm đó, Việt Nam
đẩy mạnh vận động quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung Quốc, nhất là về quân
sự, nỗ lực đưa cuộc kháng chiến đến đích cuối cùng.
1. Viện
trợ trang thiết bị và đào tạo nhân lực quân sự
Ngay
sau khi Việt Nam - Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao (1-1950), nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc và
Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang bước vào giai đoạn
quyết định, Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc, “đây là chuyến đi bí mật... về danh nghĩa, đây là phái đoàn của Trung
ương Đảng qua gặp Đảng Cộng sản Trung Quốc”[2].
Đến Trung Quốc, Hồ Chí Minh được Lưu Thiếu Kỳ tiếp đón, làm việc trực tiếp với Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ðức[3].
Tại cuộc gặp, Lưu Thiếu Kỳ phát biểu: “Cuộc kháng chiến ở Việt Nam do Đảng Việt
Nam lãnh đạo rất đúng và rất hay. Đảng Trung Quốc hết sức giúp đỡ Đảng Việt Nam
hoàn thành nhiệm vụ đó”[4]. Về
yêu cầu viện trợ của Hồ Chí Minh, Lưu Thiếu Kỳ trả lời: “Chúng tôi quyết tâm
chi viện cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam. Việc này sau khi Mao Chủ tịch
và đồng chí Chu Ân Lai về nước, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ nghiêm
chỉnh nghiên cứu nội dung và phương pháp viện trợ, chúng tôi sẽ xác định cụ thể
theo yêu cầu của các đồng chí”[5].
Theo hai
nhà nghiên cứu Jung Chang và Jon Halliday, tại Moscow, bàn về vấn đề viện trợ
cho Việt Nam với Mao Trạch Đông, I.V.Stalin khẳng định: “Viện trợ và ủng hộ cuộc
đấu tranh của dân tộc Việt Nam thuộc trách nhiệm, nghĩa vụ của Đảng Cộng sản
Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc”[6], bởi
vì “Trung Quốc và Việt Nam có nhiều mối liên hệ trong quá khứ cũng như hiện tại”[7].
I.V.Stalin nói thêm: "Chúng tôi đã đánh xong đại chiến thế giới,
còn rất nhiều vũ khí dùng chưa hết, chúng tôi có thể chở sang Trung Quốc, các đồng
chí giữ lấy, trong đó có những thứ phù hợp với chiến tranh Việt Nam, các đồng
chí cũng có thể chở một số sang Việt Nam”[8]; đồng
thời hào phóng hứa rằng, những gì Trung Quốc chuyển cho Việt Nam sẽ được Liên Xô hoàn trả. Hồi ký của Trương Quảng Hoa[9],
cũng cung cấp một thông tin tương tự về trao đổi giữa I.V.Stalin và Hồ Chí
Minh xung quanh vấn đề viện trợ Việt Nam: “Chúng tôi (Stalin- TG) đã trao đổi với các đồng chí Trung
Quốc, công việc viện trợ chiến tranh chống Pháp của Việt Nam chủ yếu do Trung
Quốc phụ trách thích hợp hơn”[10];
“Trung Quốc ở sát Việt Nam, hiểu rõ
tình hình Việt Nam hơn chúng tôi, kinh nghiệm đấu tranh của Trung Quốc càng có
tác dụng làm gương đối với Việt Nam, giúp các đồng chí sẽ thuận tiện hơn”[11].
Nhà
nghiên cứu Lý Kiện cho biết: Sau khi
thỏa thuận với I.V.Stalin về phân công trách nhiệm ủng hộ Việt Nam chống Pháp, trở
về Trung Quốc, Mao Trạch Đông nhanh chóng triệu tập Quân ủy Trung ương bàn về
viện trợ Việt Nam. Trong buổi làm việc với Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông tuyên bố:
“Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn để đánh thắng Pháp, trước mắt hãy trang bị
cho 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc. Việt Nam có thể đưa ngay một số đơn vị sang
nhận vũ khí trên đất Trung Quốc. Tỉnh Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của
Việt Nam”[12]. Theo thỏa thuận trên,
tháng 4-1950, ba trung đoàn của Việt Nam (đại đoàn 308, 209, 174) sang Mông Tự (Vân Nam) và Hoa Ðồng (Quảng Tây)
nhận vũ khí và được Trung Quốc huấn luyện quân sự[13]. Thực
hiện cam kết, Trung Quốc nhanh chóng chở vũ khí sang Cao Bằng trang bị tiếp cho
hai trung đoàn khác của Việt Nam đang
phải đối phó với quân Pháp
trên chiến trường[14].
Để đảm bảo hậu cần và tăng
cường công tác vận chuyển vật tư viện trợ cho bộ đội Việt Nam, ngày
6-8-1950, Tổng cục Hậu cần Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc thành lập văn
phòng ở Nam Ninh. Sau khi quân và dân Việt Nam mở chiến dịch Biên giới (1950)
và giành thắng
lợi, phá vòng vây, khai thông con đường nối Việt Nam với Trung
Quốc và các nước dân chủ, Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc có điều kiện ủng hộ
Việt Nam mạnh mẽ hơn. Trung Quốc trở thành cầu nối, giúp Việt Nam tiếp nhận viện
trợ từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; vùng Quảng Tây trở thành nơi tiếp
nhận hàng viện trợ cho Việt Nam.
Về viện
trợ của Trung Quốc cho Việt Nam năm 1950, nhà nghiên cứu Francois Joyaux cung cấp
một thông tin như sau: Sau khi Chính phủ Trung Quốc công nhận Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, một hiệp định đầu tiên về viện trợ quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc
đã được ký kết tại Bắc Kinh. Theo Hiệp định này, Bắc Kinh sẽ giao 150.000 súng
trường tịch thu được của Nhật và 10.000 súng cacbin Mỹ cùng với đạn dược tương ứng. Việt Minh đã bắt đầu nhận được số vũ khí
này kể từ mùa Xuân (1950-TG)[15].
Tính theo một cách khác, nhà
nghiên cứu Quang Zhai đưa ra thống kê: Từ tháng 4 đến tháng 9-1950, Trung Quốc
viện trợ cho Việt Nam 14.000 súng trường và súng lục, 1700 súng máy và
tiểu liên, 150 súng cối, 60 khẩu pháo, 300 bazooka cùng đạn dược[16].
Theo thống kê của Việt Nam, cho đến hết năm
1950, Việt Nam đã tiếp nhận của Trung Quốc 3.983 tấn hàng viện
trợ, trong đó có 1.020 tấn súng đạn
(kể cả số súng đạn các đơn vị bộ đội
Việt Nam sang Trung Quốc huấn luyện rồi đem về nước), 161 tấn
quân trang, 20 tấn thuốc và dụng cụ quân y, 71 tấn hàng quân giới, 30 xe vận tải
Môlôtôva, 2.634 tấn gạo[17].
Số hàng viện trợ nói trên chiếm 18,5% tổng số vật chất quân đội Việt Nam sử dụng
trong năm 1950.
Cũng cần
nói thêm rằng, do Trung Quốc còn nhiều khó khăn, Giải phóng quân Trung Quốc thiếu
những trang bị hiện đại, nên không thể viện trợ cho Việt Nam một số vũ khí mà bộ
đội Việt Nam đang rất cần (súng chống tăng và súng phòng không), còn trung liên
Bru-nô, đại liên Ma-xim nặng và cồng kềnh, không thích hợp với tầm vóc nhỏ bé của
bộ đội Việt Nam[18]; đồng thời, cũng không thể
gửi sang Việt Nam các loại vũ khí hạng nặng như pháo cao xạ 37 ly, pháo lựu 105
ly[19].
Điều này cũng đã được Mao Trạch Đông thẳng thắn nói ngay từ đầu trong khi thảo
luận về khả năng viện trợ với Hồ Chí Minh: “Tất nhiên các đồng chí cũng đã rõ,
công nghiệp quân sự của Trung Quốc cực kỳ lạc hậu, lực lượng của chúng tôi rất
có hạn, quân giải phóng đánh bại Tưởng Giới Thạch chủ yếu dựa vào sự giúp đỡ và
ủng hộ của quần chúng nhân dân. Trang bị vũ khí của quân giải phóng nhân dân
tuyệt đại bộ phận là do đại đội trưởng vận tải Tưởng Giới Thạch chở đến”[20].
Mặc dù vậy, số viện trợ này đã góp phần gia tăng đáng kể sức mạnh chiến
đấu của một số đơn vị chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam.
Sự
tăng cường hỏa lực thực sự làm vững mạnh thêm một quân đội giàu lòng yêu nước
và tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Những năm qua, mỗi chiến sĩ chỉ
ước mơ có một khẩu súng trong tay. Bây giờ không chỉ có súng, mà đạn dược cũng
khá dồi dào. Sức mạnh hoả lực của trung đoàn bộ binh ta đã hoàn toàn thay đổi
so với trước”[21]. Bình luận về viện trợ của Trung
Quốc cho Việt Nam, tác giả cuốn sách “Tại sao Việt Nam?” A.Patti khẳng định: “Đến
năm 1950, Mao đã ở trong thế có thể
giúp đỡ ông Hồ qua đường biên giới phía Bắc
Việt Nam. Ông Hồ không còn bị cô lập như trước, ông đã
có rất nhiều đồng minh, trước hết là Trung Quốc và sau đó
là Liên Xô, một sân bóng mới đã bắt đầu”[22].
A.Patti đã nhận định hoàn toàn chính xác, VNDCCH không còn đơn độc, không còn
buộc phải “chiến đấu trong vòng vây”, có nhiều cơ hội tranh thủ viện trợ, tăng
cường thực lực kháng chiến.
Minh
chứng cho những thời cơ và khả năng mới mở ra đối với VNDCCH trong tranh thủ ủng
hộ quốc tế mà Trung Quốc là đại diện, nhà nghiên cứu Micheal Clodfelter đưa ra thống kê: “Nếu như năm 1951, mỗi
tháng Việt Nam nhận được từ Trung Quốc khoảng 10-20
tấn hàng/tháng, thì năm 1952, số lượng viện trợ tăng lên 250 tấn/tháng, tiếp tục tăng lên 600 tấn/tháng vào năm 1953 và 1.500 đến
4.000 tấn/tháng trong năm cuối của cuộc chiến (năm 1954)”[23].
Nhà nghiên cứu Bob Seals nhận định: Từ năm 1950 đến năm 1952, viện trợ của
Trung Quốc đã giúp VNDCCH trang bị cho 7 sư đoàn[24].
Trong công trình “Vietnam at War, The History
1946-1975”, bàn về
hỏa lực của quân đội Việt Nam, Phillip B.
Davidson khẳng định: “Quân đội Việt Nam trở thành một lực lượng hùng mạnh được trang bị vũ khí hạng nhẹ, súng máy, vũ khí hạng nặng loại 120mm và 105mm cùng
với pháo cao xạ 20mm và 40mm”[25].
Đành rằng, nhân tố con người là nhân tố quyết định sức mạnh quân sự, “người trước,
súng sau”, song khi ưu thế vũ khí, trang bị được được kết hợp nhuần nhuyễn với
yếu tố con người, sức mạnh quân sự sẽ được nhân lên gấp nhiều lần.
Những
năm 1951-1953, Trung Quốc tiếp tục đóng vai trò chủ yếu
giúp đỡ, viện trợ vũ khí, phương tiện chiến tranh, trang bị quân sự cho
Việt Nam. Theo thống kê của phía Trung Quốc, trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống
Pháp, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam “155.000 khẩu súng các loại,
57.850 viên đạn, 3.692 khẩu pháo, hơn 1.080.000 quả đạn pháo, hơn 840.000
quả lựu đạn, 1.231 ô tô, hơn 1.400.000 bộ quân phục, 14.000 tấn lương
thực, thực phẩm phụ, hơn 26.000 tấn dầu và một lượng lớn thuốc men,
vật tư quân dụng khác”[26]. Một
tài liệu khác cho biết: “Từ năm 1950 đến năm 1954, Trung Quốc đã giúp Việt
Nam 116.000 khẩu súng các loại, 420 khẩu pháo, nhiều khí tài thông tin
và công binh”[27]. Để tạo điều kiện thuận lợi
cho việc vận chuyển hàng hóa viện trợ cho Việt Nam, Trung Quốc cải tạo mạng lưới giao thông vận tải (đường bộ và đường sắt) từ Trung Quốc sang
Việt Nam; đồng thời, hỗ trợ khoảng 1.000 xe tải cho việc chuyên trở[28].
Trong tình thế bấy giờ, viện trợ của Trung Quốc về vật lực – phương tiện chiến
tranh là hết sức cần thiết cho quân dân Việt Nam thúc đẩy nhanh hơn, hiệu quả
hơn công cuộc kháng chiến.
Về công tác đào tạo, huấn
luyện cán bộ quân sự cho Việt Nam, tính đến tháng 6-1950, có 3.100 cán bộ
Việt Nam được cử sang Trung Quốc học tập, bổ túc trung và sơ cấp, chỉ
huy bộ binh sơ cấp, pháo binh, công binh[29]. Để thuận tiện cho việc đào tạo nguồn nhân lực quân
sự giúp Việt Nam, năm 1951,
Chính phủ Việt Nam thỏa thuận với Chính phủ Trung Quốc mở hai cơ sở đào tạo cho
Việt Nam trên đất Trung Quốc - đó là khu học xá ở Nam Ninh và trường thiếu sinh
quân ở Lư Sơn[30]. Hàng loạt cán bộ quân sự của Việt Nam như Thiếu tướng Hồ Sĩ Liêm,
Thiếu tướng Phạm Dần, Thiếu tướng Hồ Sĩ Hậu… đều trưởng thành từ đây, kịp thời
bổ sung nguồn nhân lực cho quân đội Việt Nam.
Từ
tháng 7-1952 đến tháng 1-1953, Trung Quốc đảm nhiệm đào tạo cán bộ,
nhân viên kỹ thuật, huấn luyện bộ đội cho Trung đoàn 45- trung đoàn
pháo binh hạng nặng đầu tiên của quân đội Việt Nam và Trung đoàn pháo
cao xạ 367. Ngoài ra, còn có hai tiểu đoàn công binh và trường sĩ quan lục
quân sang học tập, huấn luyện tại Trung Quốc. Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã cử
nhiều cán bộ có kinh nghiệm đến giúp bộ đội Việt Nam học tập, như Tư lệnh Quân
khu Hồ Nam Trần Canh, Tư lệnh Quân đoàn 13 Chu Hy Hán, Sư đoàn phó Sư đoàn 7
Ngô Huy Vân và nhiều cố vấn quân sự tới cấp tiểu đoàn[31].
Qua thời gian luyện tập, được bắn đạn thật, bộ đội Việt Nam tiến bộ rất nhanh.
Ngoài chiến thuật công kiên, bộ đội Việt Nam còn học “đánh vận động dã ngoại,
có hiệp đồng bộ binh, pháo binh, cách đánh "vị thành đả viện" (vây
thành đánh quân cứu viện), "nhất điểm lưỡng diện" (một điểm, hai mặt),
tổ chức "tứ tổ, nhất đội" (bốn tổ, một đội)”[32]. Về chiến thuật, kỹ thuật, các đơn vị bộ
đội Việt Nam được “phía Trung Quốc huấn luyện thêm về chiến thuật công kiên, đặc
biệt là kỹ thuật đánh bộc phá”[33],
cụ thể là 5 kỹ năng lớn: Đánh bộc phá, xây dựng công sự, bắn súng, đâm lê, ném
lựu đạn. Bộ đội Việt Nam còn được làm quen với tác phong chiến đấu của Quân giải
phóng nhân dân Trung Quốc như "tứ khoái, nhất mạn" (bốn nhanh, một chậm),
"mãnh đả, mãnh xung, mãnh truy" (đánh mạnh, xung phong mạnh, truy
kích mạnh)[34]… Quân đoàn 13 của Trung
Quốc cử một tiểu đoàn pháo binh đến giúp Đại đoàn 308 học tập sử dụng pháo 70
ly, 57 ly, ĐKZ[35]… Trong đào tạo, huấn luyện
và bồi dưỡng cán bộ quân sự Việt Nam, phía Trung Quốc nhiệt tình, tận tâm, góp phần nâng cao trình độ
tác chiến của Quân đội nhân dân Việt Nam.
2. Cố vấn quân sự Trung Quốc ở Việt Nam
Tháng
3-1950, trên đường từ Liên Xô trở về Việt Nam, dừng chân tại Bắc Kinh, trong cuộc
hội đàm với Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh đề nghị Trung Quốc cử cố vấn hỗ trợ Việt Nam. Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc sẽ là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhân dân
Việt Nam với Đảng, nhân dân Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt liên quan
tới phương diện viện trợ nguồn lực cần
thiết, kịp thời và chia sẻ kinh
nghiệm cách mạng của Trung Quốc cho công cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp của nhân dân Việt Nam. Trên ý nghĩa đó, phía Trung Quốc đồng ý
cử cố vấn sang giúp Việt Nam tác chiến
và công tác[36]
trên tinh thần “cần bao nhiêu cấp bấy nhiêu, quyết không giảm bớt,
mà còn phải chọn, điều động cho tốt cán bộ cử đi”[37];
đồng thời, đề ra 6 tiêu chí nghiêm ngặt trong tuyển chọn[38].
Bốn lãnh đạo
Đoàn cố vấn gồm La Quý Ba (Trưởng đoàn cố vấn), Vi Quốc Thanh (Trưởng đoàn cố vấn
về quân sự), Mai Gia Sinh (cố vấn về công tác tham mưu), Mã Tây Phu (cố vấn về
công tác hậu cần) được Trung ương Đảng, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc
cân nhắc, lựa chọn[39].
Theo Xiaobing Li, tổng
số Đoàn cố vấn có 281 người, gồm những cán bộ có nhiều kinh nghiệm về công tác
tài chính, kinh tế, dân vận và chỉ huy chiến đấu[40]. Trao đổi với Lã Quý Ba trước khi Lã Quý Ba được cử
sang Việt Nam, Mao Trạch Đông căn dặn: “Làm Tổng cố vấn
không thể rập khuôn theo kiểu của Liên Xô, mà Việt Nam cũng không phải là Trung
Quốc, đồng chí không thể rập khuôn theo kiểu Trung Quốc. Mọi việc phải xuất
phát từ thực tế Việt Nam, phải thật thà, thành khẩn trước mặt mọi người, giới
thiệu kinh nghiệm thành công của cách mạng Trung Quốc, cũng phải nói đến bài
học thất bại”[41].
Tháng
7-1950, Đoàn cố vấn quân sự (gồm 79 người và một số trợ lý) chính thức được
thành lập tại Nam Ninh. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc soạn thảo bộ Quy tắc công tác của Đoàn cố vấn quân sự,
đề ra những chuẩn tắc, yêu cầu rõ ràng trong công tác và hành động. Ngày
9-8-1950, Đoàn cố vấn quân sự từ Nam Ninh lên đường,
để giữ
bí mật, lấy tên là Đoàn công tác Hoa Nam[42]. Về tổ chức, Đoàn cố vấn được chia thành các tổ cố vấn quân
sự, chính trị và hậu cần.
Đây là lần đầu tiên Đảng
Cộng sản Trung Quốc cử cố vấn quân sự ra nước ngoài; do vậy, tại buổi gặp mặt các thành viên (tại Bắc Kinh)
trước khi Đoàn lên đường sang Việt Nam,
Mao Trạch Đông phát biểu: "Hồ Chí Minh và nhiều người Việt Nam đã từng
tham gia và giúp đỡ cho cuộc đấu tranh cách mạng của Trung Quốc, có người còn đổ
máu hy sinh. Bây giờ các đồng chí sang giúp đỡ cuộc đấu tranh chống Pháp của họ
là hoàn toàn nên"[43].
Mao Trạch Đông căn dặn: "Làm cố vấn chính là làm tham mưu, không được bao
biện làm thay, cũng không thể làm "Thái
Thượng Hoàng" chỉ tay năm ngón"[44].
Chu Ân Lai cụ thể hóa cơ chế hoạt động: "Về sinh hoạt Đảng vẫn thuộc Đảng
Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, nhưng về công tác thì các đồng chí lấy tư cách cố
vấn mà tiến hành. Làm việc ở cơ quan nào thì do đồng chí Việt Nam phụ trách cơ
quan đó mà lãnh đạo"3. Thực tế, những lời căn dặn từ Mao Trạch Đông
và Chu Ân Lai đối với cố vấn Trung Quốc mang ý nghĩa chỉ đạo phương hướng hành
động, hình thành những nguyên tắc phối hợp hoạt động để Đoàn công tác giữ đúng vai trò cố vấn.
Những năm 1950-1954,
Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc công tác bên cạnh Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân
dân Việt Nam, phát huy nhiệm vụ được giao, đã tham gia nhiều ý kiến đối với các
hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực Việt Nam trên chiến trường chính Bắc Bộ.
Trong tổng số 50 chiến dịch lớn nhỏ, Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tham gia
bảy chiến dịch[45],
trực tiếp giúp đỡ một số đơn vị chủ lực Việt Nam tác chiến. “Hầu hết các chiến
dịch đều giành thắng lợi, có chiến dịch thắng lợi vượt mức kế hoạch đề ra như
chiến dịch Biên giới, nhưng cũng có chiến dịch không đạt yêu cầu chiến lược như
ba chiến dịch đầu năm 1951”[46].
Sở dĩ có một số “chiến dịch không đạt yêu cầu chiến lược” một phần bởi chiến
thuật của cố vấn Trung Quốc không phù hợp với quy mô, trang bị của Quân đội
Việt Nam vốn nhỏ hơn nhiều so với quân đội Trung Quốc. Đến chiến dịch Hòa Bình
(1952), các cố vấn Trung Quốc không tham gia mà tập trung ở vùng
Ba Bể, Bắc Cạn, để chỉnh huấn chính trị. Từ đó về sau, vai trò của cố vấn Trung
Quốc thực ra chỉ dừng ở mức tham khảo ý
kiến mà thôi.
Quan hệ
giữa cố vấn Trung Quốc với chỉ huy và chiến sĩ Việt Nam khá tốt. Đại tướng Võ
Nguyên Giáp nhớ lại: “Quan hệ giữa chúng tôi và các chuyên gia quân sự Bạn từ
sau Chiến dịch Biên giới tới giờ, nhìn chung là tốt đẹp. Bạn đã giúp chúng ta nhiều
kinh nghiệm quý rút ra từ cuộc chíến tranh
cách mạng của Trung Quốc và chiến tranh chống Mỹ ở Triều Tiên”[47].
Khi làm việc với cố vấn Trung Quốc, phía Việt Nam, “từ Bộ Tổng tư lệnh đến
các đại đoàn đều trân trọng nghiên cứu ý kiến của bạn, nhất là những kinh nghiệm
về cách đánh công sự vững chắc. Nhưng đồng thời Quân ủy Trung ương và riêng Tổng
tư lệnh Võ Nguyên Giáp cũng luôn căn cứ vào thực tế trình độ tác chiến của bộ đội
ta mà vận dụng những ý kiến và kinh nghiệm của bạn cho phù hợp với điều kiện thực
tế của Việt Nam, nhằm bảo đảm chắc thắng đồng thời hạn chế tổn thất ở mức thấp
nhất”[48].
Đến tháng 10-1954, tổng số cố vấn quân sự Trung Quốc ở Việt Nam là 237 người,
đa số là các nhân viên làm công tác đảm bảo, như cung cấp, y vụ, điện đài. Đến
tháng 8-1955, chỉ còn lại các tổ cố vấn quân sự, hậu cần, chính trị, pháo binh,
công binh, hàng không dân dụng với vài chục nhân viên kỹ thuật và cố vấn. Thực
hiện chỉ thị giải thể Đoàn cố vấn của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (sau
khi kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam kết thúc), nhân viên Đoàn cố vấn
quân sự chia thành ba đợt rút về nước. Các chuyên gia quân sự và nhân viên kỹ
thuật được mời làm chuyên gia, chuyển sang cho Phòng Tùy viên quân sự lãnh đạo
(theo chế độ chuyên gia). Đảng, Chính phủ Việt Nam đánh giá cao sự đóng góp của
Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc. Nhân dịp Quốc khánh Việt Nam, ngày 2-9-1953, Đảng,
Chính phủ Việt Nam đã “trao huân chương anh hùng, chiến sĩ thi đua và huân
chương kháng chiến cho hơn 30 cố vấn và nhân viên công tác; đồng thời, tặng kỷ
niệm chương kháng chiến cho 397 nhân viên Đoàn cố vấn”[49].
3. Trung Quốc với chiến dịch Điện Biên Phủ
1954
Sau thắng
lợi của chiến dịch Tây Bắc (1952) và chiến dịch Thượng Lào (1953), cục diện chiến
tranh chuyển biến mạnh mẽ theo chiều hướng có lợi cho VNDCCH. Qua gần tám năm vừa
xây dựng, vừa chiến đấu (1946-1953), lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã
phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng[50],
“có khả năng chống chọi với những gì tốt đẹp nhất mà nước Pháp có
thể đưa ra trong cuộc đối đầu”[51]. Với
chủ trương ''chứng minh cho Việt Minh thấy rằng nếu như chúng ta (tức phía Pháp -TG) không thắng trong
cuộc chiến tranh thì họ cũng không có hy vọng gì thắng ta bằng quân sự và do đó
cần phải thương lượng''[52], Điện
Biên Phủ được người Pháp xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có
trong cuộc chiến tranh Đông Dương, thực hiện nhiệm vụ chốt giữ, phòng thủ, phân
tán một bộ phận quan trọng khối chủ lực cơ động của đối phương. Điện Biên Phủ,
giờ đây trở thành “điểm hẹn lịch sử”, nơi diễn ra cuộc đọ sức quyết liệt, mà
nếu như về phía VNDCCH, nó phải trở thành trận quyết chiến lược đánh bại ý chí
duy trì thuộc địa Đông Dương của Pháp, buộc Pháp phải hòa đàm, cuốn cờ, rút
quân, thì đối với với phía Pháp, đó lại là canh bạc mà “cái được đem ra
đặt cược không phải chỉ là số phận của quân đội Pháp tại Đông Dương,
vai trò của nước Pháp ở Đông Nam Á, mà còn là sự duy trì thuộc địa
Việt Nam và trên một chừng mực nào đó cả nước Lào và Cao Miên trong
phe những nước không cộng sản”[53].
Nói như vậy
để thấy rằng, thắng lợi hay thất bại trong trận quyết chiến chiến lược Điện
Biên Phủ sẽ quyết định số phận và toan tính của mỗi bên tham chiến. Do tầm quan
trọng đặc biệt của chiến dịch, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Chính phủ, Tổng
Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam hết sức quan tâm đến công
tác huy động, cung cấp lương thực, vũ khí đạn dược, trang bị vật chất cho mặt
trận. Khối lượng vật chất bảo đảm cho
chiến dịch lên tới 20.000 tấn, trong đó có 1.200 tấn đạn, 1.783 tấn xăng dầu,
14.950 tấn gạo, 268 tấn muối, 577 tấn thịt, 1.034 tấn thực phẩm và 177 tấn vật
chất khác[54]. Đóng
góp vào nỗ lực đó, Trung
Quốc đã giúp đỡ cho Việt Nam khá chu đáo, từ đạn dược đến gạo muối. Nhà nghiên
cứu Micheal Clodfelter đưa ra số liệu về sự
chi viện của Trung Quốc trong 8 tuần chiến dịch Điện Biên Phủ như sau: “Trung Quốc cung cấp 8.286 tấn vật tư, bao gồm 4.620 tấn xăng dầu, 1.360 tấn
đạn dược , 46 tấn vũ khí và 1.700 tấn gạo”[55].
Một thống kê khác của Trung Quốc cho biết: Riêng chiến dịch Điện Biên Phủ,
Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam tổng cộng hơn 200 ô tô, hơn 10.000
thùng dầu, hơn 3000 khẩu súng các loại, 2.400.000 viên đạn, hơn 100
khẩu pháo các loại, hơn 60.000 viên đạn pháo và đạn hỏa tiễn, 1.700
tấn lương thực, ngoài ra còn có một lượng lớn thuốc men, khí tài,
thuốc nổ[56].
Theo các
tư liệu từ phía Việt Nam, trước yêu cầu cấp bách của trận chiến, Trung Quốc
đã viện trợ 1.700 tấn gạo, bằng 6,8% tổng số gạo huy động cho chiến dịch[57],
chi viện 3.600 viên đạn pháo 105 ly (đó
là cơ số đạn đi theo 24 khẩu pháo viện trợ đưa về Việt Nam từ cuối năm 1953), chiếm 18% tổng
số đạn pháo sử dụng[58],
sau vét ở các kho chuyển thêm cho Quân đội nhân dân Việt Nam 7.400 viên đạn
105 ly[59],
dù đạn pháo 105 ly của Trung Quốc đã trở nên khan hiếm sau chiến tranh
Triều Tiên (vì điều kiện vận chuyển khó khăn, 7.400 viên đạn này đến tháng 5 năm 1954 mới tới, khi trận đánh
đã kết thúc). Trong những ngày cuối chiến dịch Điện Biên Phủ,
Trung Quốc còn giúp trang bị cho một tiểu đoàn ĐKZ 75mm và 12 dàn hỏa tiễn (cachiusa) 6 nòng[60] -
loại hỏa lực mạnh nhất mà Quân đội nhân dân Việt Nam có được lúc bấy
giờ. Hai tiểu đoàn này đã kịp thời tham
gia đợt tổng công kích cuối cùng diễn ra chiều ngày 6 tháng 5 năm 1954 và đã sử
dụng 1.136 viên đạn.
Bên cạnh
đó, Trung Quốc cũng đẩy mạnh công tác huấn luyện bộ đội Việt Nam. Sau sáu tháng
được tích cực bồi dưỡng ở Mông Tự (Vân Nam) và Tân Dương (Quảng Tây), được Trung
Quốc trang bị toàn bộ vũ khí của Liên Xô, Trung đoàn pháo binh 45 và Trung
đoàn pháo cao xạ 367 trở về nước tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. “Trước khi về nước, cán bộ và chiến sĩ đã nắm
vững chiến thuật và kỹ thuật. Đây là một lực lượng đáng tin cậy để hạn chế hoạt
động của không quân địch”[61].
Chuẩn
bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Tham mưu trưởng Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc
Mai Gia Sinh, Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc Vi Quốc Thanh và một số cán bộ, cố vấn tham mưu, chính trị,
hậu cần tích cực tham gia cùng với các tướng lĩnh Việt Nam trong các khâu khảo
sát, lên kế hoạch và chuẩn bị chiến trường. Về phương án tác chiến, sau khi cân
nhắc thuận lợi và khó khăn về cách đánh cũng như về khả năng bảo đảm hậu cần, ngày
9-12-1953, các cố vấn Trung Quốc đề nghị chọn phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” trong hai phương án[62]
được đặt ra. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu kế hoạch tác chiến “đánh chắc, tiến chắc” của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp; đồng thời, phân tích và quan sát tình hình thực tế, ngày 26-1-1954,
Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh đã hoàn toàn ủng hộ phương án của Đại tướng:
“Tôi đồng ý với Võ Tổng. Tôi sẽ làm việc với các chuyên gia”[63].
Sau khi nhất trí với chủ trương thay đổi phương châm chiến dịch, các cố vấn
Trung Quốc “đều bày tỏ quyết tâm đồng cam cộng khổ, đem hết trí tuệ và năng lực
giúp bộ đội Việt Nam giành toàn thắng”[64]. Để
đóng góp thêm cho Việt Nam về kinh nghiệm
tác chiến trong một chiến dịch quan trọng như vậy, Vi Quốc Thanh “đề nghị
Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc gửi
gấp những tài liệu tổng kết kinh nghiệm chiến đấu mới nhất ở Triều Tiên, nhất
là kinh nghiệm xây dựng trận địa và chiến đấu đường hầm, kể cả cuốn Thượng Cam Lĩnh để bộ đội Việt
Nam tham khảo”[65].
Trong quá trình chuẩn bị chiến địch
theo phương châm mới, các cố vấn Trung Quốc (Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh) trực
tiếp giới thiệu cách xây dựng trận địa tiến công và bao vây cho cán bộ Việt Nam
trên cơ sở kinh nghiệm của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trong chiến dịch
Hoài Hải và của Quân chí nguyện Trung Quốc ở Triều Tiên; hướng dẫn công binh
Việt Nam xây dựng trận địa mẫu để cán bộ các đơn vị tham quan học tập, hướng
dẫn cụ thể cho cán bộ Việt Nam ở thực địa[66].
Đại tá Nguyễn Minh Phương – nguyên Trợ lý Ban chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ,
người trực tiếp phiên dịch cho các cố vấn Trung Quốc nhớ lại: “Ở các cơ quan
tham mưu, chính trị, hậu cần cũng như ở các binh chủng, các đơn vị chiến đấu,
trước cũng như sau khi thay đổi phương châm chiến dịch, các cố vấn quân sự Trung Quốc đã giúp bộ đội
Việt Nam một cách chân thành, tích cực, tận tình, không nề hà hiểm nguy gian
khổ”[67]. Như
vậy, trong chiến thắng chung cuộc của sự kiện lịch sử “lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu”, có dấu ấn và những đóng góp đáng ghi nhận của nước đồng minh Trung
Quốc.
4. Đôi điều luận giải và suy ngẫm
Trong
quãng thời gian chống Pháp 9 năm gian khó, toàn thể nhân dân Việt Nam đã đồng
cam, cộng khổ, phấn đấu không mệt mỏi cho mục tiêu độc lập, tự do. Hy vọng về một ngày toàn thắng và một
tương lai tươi sáng đã nâng đỡ bước
chân dân tộc tiến về phía trước. Trong chặng đường đầy chông gai, thử thách,
trên nền tảng chính nghĩa của cuộc kháng chiến, nhân dân Việt Nam không đơn độc.
Kề vai, sát cánh cùng với Việt Nam luôn có các lực lượng dân chủ thế giới. Việt
Nam nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình và to lớn từ các nước trong “đại
gia đình dân chủ”, trong đó có Trung Quốc.
Mặc dù
có sự cách biệt số liệu viện trợ
trong thống kê của Trung Quốc và Việt Nam, khác
biệt trong cách đo lường, tính toán và cách nhìn nhận của nhiều nhà nghiên
cứu, song về tổng thể, có thể khẳng định rằng, viện trợ của Trung Quốc cho Việt
Nam những năm 1950-1954 là đáng ghi nhận,
có hiệu quả. Đặc biệt, trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng
chiến, viện trợ của Trung Quốc càng trở nên hết sức quan trọng, nhất là khi sự
giúp đỡ ấy được dồn vào hai thời điểm có tính chất bước ngoặt: 1- Năm 1950 -
khai thông biên giới, mở ra cánh cửa cho Việt Nam tiếp xúc với các nước dân chủ; 2- Năm 1954 - chiến thắng Điện
Biên Phủ, dẫn tới việc ký kết Hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương, giải phóng miền Bắc Việt Nam.
Bàn về sự giúp đỡ của Trung Quốc cho Việt Nam những năm
Việt Nam gồng mình kháng Pháp, các nhà nghiên cứu đứng trên những lập trường
khác nhau thường đặt câu hỏi về vấn đề lợi
ích quốc gia, chủ nghĩa quốc tế vô sản, vấn đề ý thức hệ…; dựa trên đó lý giải nguyên
nhân, lý do viện trợ.
Trả lời cho những câu hỏi nêu trên, xuất hiện hai khuynh hướng chủ yếu: Một là, nhấn mạnh yếu tố dân tộc chủ nghĩa – giúp đỡ đi kèm với
lan tỏa ảnh hưởng và “thôn tính” bằng nhiều phương cách; hai là, dựa trên yếu tố ý thức
hệ - yếu tố vừa là đặc trưng, vừa là di sản của thời kỳ chiến tranh Lạnh.
Hai khuynh hướng trên đây đều có những hạt nhân hợp lý nhất định, song nhấn mạnh
bất kỳ một khuynh hướng nào cũng đều khiên cưỡng, thiên kiến. Nhìn chung, chính sách Đông Dương của Trung Quốc, chính sách ủng hộ,
viện trợ cho Việt Nam được xây dựng/ra đời và vận hành/thực hiện trên cơ sở
tổng hòa những yếu tố khách quan, chủ quan, từ thực tiễn địa – chính trị, nền
tảng ý thức hệ, lợi ích phe phái, lợi ích quốc gia, hoàn cảnh, yêu cầu lịch sử
- chính trị cụ thể, cho đến các mối quan hệ và tính cách cá nhân của những nhà
lãnh đạo đứng đầu hai quốc gia. Nói cách khác, quyết định giúp đỡ Việt Nam của Mao Trạch Đông là kết quả của
những tính toán và cân nhắc cẩn trọng, có thể được coi là hết sức đặc biệt, soi
chiếu trong điều kiện Trung Quốc mới giải phóng, đang phải đương đầu với rất
nhiều khó khăn và sự nghiệp “kháng Mỹ, viện Triều” khiến Trung Quốc hao tổn
không ít nguồn lực, thậm chí buộc Trung Quốc phải hoãn
kế hoạch giải phóng Đài Loan[68].
Ở bài viết này, chúng tôi không đi sâu vào khía cạnh nêu
trên của vấn đề. Trên tinh thần “lịch
sử chỉ có một” và luôn là tấm gương soi chiếu công bằng, chân thực, hiểu biết về lịch sử
để đi đúng hướng ở hiện tại, chúng tôi muốn đề cập một chiều cạnh khác – tính hai mặt trong sự vận động khách
quan của quá trình lịch sử. Theo đó, cần thấy rằng, sự viện trợ của Trung Quốc,
sự hiện diện của cố vấn Trung Quốc, dù sao đi nữa, cũng có những ảnh hưởng nhất
định không chỉ tới nhịp độ của cách mạng Việt Nam, mà còn cả tới một số chiến
lược cách mạng nhất định. Nên nhớ rằng, lịch sử, ngay cả lịch sử anh hùng nhất,
cũng không đơn giản là những sự kiện được liệt kê thành chuỗi ngày tháng, như
thể được chụp lại thành những hồi tưởng đơn giản trên trang sách. Lịch sử là một
quá trình phức hợp, mà mỗi nhân tố của lịch sử đều không ngừng vươn lên khẳng định
tính chủ thể của mình. Là người nghiên cứu, cần thấy rằng, chính quyền cách mạng
Việt Nam lúc đó cùng lúc phải đối mặt với một loạt các vấn đề lịch sử phức tạp,
mà để có thể giải quyết hiệu quả những vấn đề này, điều có ý nghĩa quyết định
là phải động viên cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, nghĩa là phải “tự lực cánh sinh”. Nhưng bên cạnh đó, lại
cũng rất cần nỗ lực vận động quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của
bè bạn, đồng minh, kể cả việc tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm của các nước. Tuy
nhiên, và chắc chắn rằng, để tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế cũng như
tiếp thu có hiệu quả kinh nghiệm của nước khác, phải giữ vững đường lối độc lập,
tự chủ, phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc…
Những tiếp thu kinh nghiệm Trung
Quốc của Việt Nam đầu tiên là trong lĩnh vực tư tưởng
và quân sự. Ngoài việc học tập kỹ thuật, chiến thuật, bộ đội Việt Nam cũng
được học tác phong chiến đấu, tư tưởng quân sự của Quân giải phóng nhân dân
Trung Quốc; đồng thời, công tác giáo dục chính trị, công tác xây dựng Đảng được
đẩy mạnh từng bước[69],
nhằm nâng cao “trình độ giác ngộ giai cấp”, làm “xoay chiều tư tưởng” cán bộ,
chiến sĩ. Theo William Duiker,
các cố vấn quân sự của Trung Quốc đã xúc tiến trong quân đội Việt Nam một chiến
dịch nghiên cứu kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc từ cuộc chiến tranh chống
Nhật Bản và Quốc Dân Đảng[70].
Các tác phẩm về chiến tranh nhân dân của Mao Trạch Đông (Đánh lâu dài, Chính phủ liên hiệp, Mâu thuẫn luận, Thực tiễn luận, Báo
cáo quân sự của Chu Đức...), trong thời gian đó, được phổ biến rộng rãi đối
với hàng ngũ cán bộ quân đội Việt Nam. Qua những chiến dịch như vậy, tư tưởng
Mao Trạch Đông dần dần thâm nhập vào hàng ngũ cán bộ quân sự, dân chính Việt
Nam. Năm 1952, tại Đại hội II Đảng Lao động Việt Nam, Điều lệ Đảng đã ghi nhận
tư tưởng Mao Trạch Đông.
Về kinh tế, Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ
chỉ thị cho Đoàn cố vấn: “Biện pháp trưng
thu công lương, thu hồi tiền tệ về ngân hàng và phát triển sản xuất mà Trung
Quốc áp dụng trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật và chiến tranh giải phóng về
cơ bản thích dụng với Việt Nam, có thể cung cấp để các đồng chí ấy tham khảo”[71].
Tuân thủ chỉ thị, Đoàn cố vấn Trung Quốc đã “giới thiệu và vận dụng kinh nghiệm
của Trung Quốc để giúp Việt Nam từ chính sách, phương châm, điều lệ, chế độ,
nội quy của công tác tài chính kinh tế cho đến biện pháp thực thi cụ thể”[72]. Trong cuốn Hồi ký “Ghi chép thực về Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống
Pháp”,
Vương Nghiên Tuyền – một trong những cán bộ trong Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc
thừa nhận: Trước Hội nghị Trung ương 4 (1-1953)[73], “Chủ
tịch Mao Trạch Đông đã nhiều lần nêu kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các
vị lãnh đạo khác của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về việc thực hành giảm
tô, giảm tức, giảm nhẹ gánh nặng của nông dân, cải thiện đời sống nông dân ở
vùng giải phóng Việt Nam”[74].
Vương Nghiên Tuyền cho biết thêm về quan điểm của Đoàn cố vấn: “Các cố vấn
Trung Quốc trong Quân đội nhân dân Việt Nam cũng sớm cảm thấy nếu không thực
hành giảm tô, giảm tức, phát động hơn nữa nhiệt tình của nông dân tham gia chiến
đấu thì muốn kiên trì cuộc chiến tranh chống Pháp lâu dài đến thắng lợi cuối
cùng là có khó khăn”[75].
Đối với vấn đề cải cách ruộng đất,
nhà sử học Yinghong
Cheng cung cấp một thông tin đáng lưu ý và suy ngẫm: “Trung Quốc bắt đầu hối thúc các đồng chí Việt
Nam thực thi cải cách ruộng đất … ngay từ mùa Hè năm 1949”[76].Theo
quan điểm của những người cộng sản Việt Nam, để không phá vỡ khối đại đoàn kết
dân tộc, chưa nên vội làm cải cách ruộng đất, trước mắt chỉ thực hiện giảm
tô, giảm tức, tạo điều kiện vận động và đưa tầng lớp tinh hoa nông thôn vào Mặt trận dân tộc. Dưới áp lực của việc
đẩy mạnh kháng chiến trên đà thắng lợi, kéo theo nhu cầu nhận viện trợ mỗi lúc
một gia tăng; đồng thời, chịu tác động của những quan điểm “cứng rắn” từ Ban
lãnh đạo các nước đồng minh, mùa Hè năm 1952, sau khi đi Trung Quốc và
Liên Xô về, Hồ Chí Minh chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa II,
1-1953), quyết định cải cách ruộng đất, quán triệt tinh thần “phải ra sức phát động quần chúng nông dân, làm cho quần chúng tự
giác tự nguyện đứng ra đấu tranh triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và
giành lấy ưu thế chính trị ở nông thôn”[77].
Phát biểu
tại lớp chỉnh Đảng Trung ương khóa II (10-4-1953), Hồ Chí Minh khẳng định: “Ta
còn khuyết điểm trong việc thi hành chính sách ruộng đất (…). Đảng, Chính phủ
quyết tâm phát động quần chúng triệt để thi hành chính sách ruộng đất”[78].
Thực hiện chủ trương trên, Trung Quốc cử Đoàn cố
vấn hỗ trợ Việt Nam cải cách ruộng đất, bao gồm cố vấn công an, cố vấn tổ chức,
cố vấn tuyên truyền, do Kiều Hiểu Quang, Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây làm Trưởng
đoàn, đem các nề nếp từ Trung Quốc sang, đem kinh nghiệm chỉnh đảng, chỉnh
phong từ Diên An áp đặt vào Việt Nam. Cùng với sự giúp đỡ của các cố vấn Trung
Quốc, Việt Nam áp mô hình “thổ cải” của Trung Quốc vào cải cách ruộng đất, luận
tội phú nông, địa chủ yêu nước đã từng hiến ruộng, nuôi cách mạng; đánh tan lớp
trung nông - người sản xuất giỏi nhất, biến phú nông, trung nông thành kẻ thù
giai cấp, đi ngược lại chủ trương tập hợp lực lượng mà Đảng Cộng sản Việt Nam vốn
đã đề ra ngay từ khi mới ra đời. Việc áp đặt giáo điều các biện pháp rập khuôn từ cải cách ruộng đất của Trung Quốc, mà không
cân nhắc kĩ hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, đã gây ra nhiều phương hại và tổn thất, tạo
nên không khí căng thẳng tại nông thôn miền Bắc, “làm cho uy tín của Đảng và
Chính phủ bị giảm sút trong quần chúng một phần nào, tinh thần phấn khởi và
lòng tin tưởng của cán bộ và quần chúng bị hạn chế, tình đoàn kết trong nông
dân lao động tạm thời bị sút kém, và quan hệ trong Mặt trận dân tộc thống nhất
có lúc bị ảnh hưởng” [79].
Bên cạnh
đó, diễn ra dồn dập các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân, nhằm “nâng cao giác ngộ chính trị cho cán bộ và chiến sĩ về ý thức giai cấp, về
nhiệm vụ cách mạng của Quân đội nhân dân”[80],
nhưng
lại đề
cao việc bồi dưỡng tư tưởng Mao Trạch Đông[81].
Cùng với “chỉnh quân”, Đảng Lao động Việt Nam tiến hành “chấn chỉnh tổ chức, tư tưởng, tác phong của Đảng”, biến cuộc “chỉnh đảng” thành đánh "địch"
khắp nơi trong Đảng, “đả kích vào nội
bộ Đảng và một bộ phận nông dân lao động, gây nên những tổn thất nghiêm trọng”[82];
trong đó, thất bại “đau đớn nhất là về mặt tổ chức đảng (…). Kết quả là trong một
thời gian tương đối dài, một số cơ sở của ta ở nông thôn bị tạm thời suy yếu, sự
đoàn kết trong nhiều đảng bộ bị tổn thương nặng”[83].
Lịch sử
là một dòng chảy, có điểm bắt đầu và tiếp nối, phản ánh tính đa diện của hiện
thực khách quan. Tái hiện lại bức tranh lịch sử, từ những thành công, thất bại,
được và mất của ngày hôm qua, không thể
không có những ưu tư về hiện tại. Rập khuôn, máy móc hay mơ hồ, ấu trĩ, tả
khuynh để tính hướng đích chính trị đơn
thuần lấn át những chuẩn mực khoa học,
những chuẩn mực giá trị của cộng đồng và
dân tộc, bỏ qua những kinh nghiệm lịch sử xương máu; có thể, một lần nữa,
chúng ta sẽ phải tự vấn trước tương lai.
[1] Hồ Chí
Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr. 522
[3] Lúc này,
Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đang ở Liên Xô chuẩn
bị cho việc ký kết Hiệp ước hợp tác hữu nghị Trung –Xô.
[4] Tư liệu nghiên cứu về
quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam 1949-1979, Cục Nghiên cứu Bộ Quốc phòng, bản đánh máy, t.1, tr. 29
[5] Ghi chép thực về Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, Nxb. Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc Kinh, 2002
(Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch; Dương Danh Dy hiệu đính), tr.18.
[6] Jung
Chang and Jon Halliday, Mao: The Unknown Story, (New York, NY: Alfred A.
Knopf, 2005), p. 482.
[7] Lý Kiện (Chủ biên): Trung – Xô – Mỹ
cuộc đối đầu lịch sử, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2008, tr.
527.
[8] Lý Kiện
(biên soạn,), Trung – Xô – Mỹ cuộc đối
đầu lịch sử, Sdđ, tr. 527
[9] Một
trong những cố vấn thuộc Đoàn cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách công
tác thống kê, kiểm giao viện trợ.
[12] Lý Kiện (Chủ biên): Trung – Xô – Mỹ
cuộc đối đầu lịch sử, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2008, tr.527.
[13] Yang Kuisong: Changes in Mao Zedong's Attitude toward the Indochina
War, 1949-1973, Cold War International History Project, Wilson Center, p.5.
[14] Ðại tướng Võ Nguyên Giáp-Tổng
tập hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.624.
[15] Francois Joyaux: Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến
tranh Đông Dương lần thứ nhất, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1981, tr.
82-83.
[16] Quang
Zhai, China and the Vietnam Wars, 1950-1975 (Chapel Hill, Univ. of North
Carolina Press, 2000), p.20.
[17] Hồ sơ viện trợ quốc tế, lưu trữ tại Tổng
cục hậu cần, cặp số 20,21.
[18] Bộ Quốc
phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch
sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 2011, t.4, tr.55.
[19] Trung
Tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Thống kê Tổng
hợp tình hình tiếp nhận viện trợ từ năm 1950 đến ngày 20 tháng 5 năm 1954, Tập
báo cáo nhu cầu viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam từ 1952- 1954, Hồ sơ
651, Phông Bộ Quốc phòng, tờ số 102.
[21] Võ
Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi ký, Sđd,
tr. 625.
[22]Archimedes
Patti: Tại sao Việt Nam? Nxb. Đà Nẵng,
1995, tr. 397.
[23] Micheal Clodfelter, Vietnam in Military Statistics, A
History of the Indochina Wars, 1772-1991, (Jefferson, NC: McFarland &
Co, Inc., 1995), p.12.
Chúng tôi chưa có điều kiện kiểm chứng, song viện dẫn một cách tính khác để có
thêm nhiều nguồn đối sánh: Theo thống kê của Việt Nam, từ năm 1950 đến năm
1954, Việt Nam nhận được 3,983 tấn, năm 1951 là 6.086 tấn, năm 1952 là 2.156 tấn,
năm 1953 là 4.400 tấn, năm 1954 (từ tháng 1 đến tháng 6) là 4.892 tấn. Về chủng
loại bao gồm: 4.253 tấn vũ khí đạn dược, 73 tấn hàng quân giới, 5.069 tấn hàng
vận tải, 9.590 tấn gạo, 1.505 tấn hàng quân trang, 157 tấn hàng quân y, 200 tấn
hàng thông tin, 40 tấn hàng công binh. Một số loại trang bị chính: 715 xe ô tô
vận tải; 24 khẩu pháo 105 mm với 1.100 viên đạn; 48 khẩu sơn pháo 75 mm với
32.484 viên đạn; 76 khẩu cao xạ 37 mm với 51.620 viên đạn. Trong số vũ khí
trang bị kể trên, ngoài ô tô vận tải, pháo cao xạ, hỏa tiễn 6 nòng, tiểu liên
K50 là của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, còn các loại vũ khí bộ
binh, pháo 105 mm, 75 mm, lương thực là do Chính phủ và nhân dân Trung Quốc viện
trợ (Nguồn: Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ
Chính trị. Tổng kết cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr.459). Theo
cuốn Bách khoa tri thức quốc phòng toàn
dân (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003): Gạo, thực phẩm từ Trung Quốc
chuyển sang cho Việt Nam có trọng lượng như sau : 120 tấn (năm 1950), 776
tấn (năm 1951), 610 tấn (năm 1952), 1,516 tấn (1953), 1, 772 tấn (năm 1954)
[tr.638].
[24] Bob
Seals: Chinese Support for North Vietnam during the Vietnam War: The Decisive
Edge, MilitaryHistoryOnline.com, 09/23/2008.
[25] Phillip
B. Davidson, Lieutenant General USA, Ret., Vietnam at War, The History
1946-1975. (Novato, CA: Presidio Press, 1988), p.123.
[26] Dẫn theo Nguyễn Phương Hoa: Viện trợ của Trung Quốc đối với cuộc kháng
chiến chống Pháp của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5
(84)-2008, tr.46. Trong cuốn Ghi chép thực về Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống
Pháp, Trương Quảng Hoa- người đảm nhận công việc
thống kê, ghi chép viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam lại đưa ra con số: Theo
tài liệu hữu quan, Trung Quốc viện trợ viện trợ cho quân đội nhân dân Việt Nam
hơn 150.000 khẩu súng, hơn 3.000 khẩu pháo và số lớn đạn dược, xe cộ, quần áo,
lương thực, thực phẩm phụ và đồ dùng hằng ngày khác như màn, khăn bông, bát
tráng men v.v..(tr.45-46).
[27] Tân Tử Lăng: Mao Trạch Đông ngàn
năm công tội, TTX Việt Nam dịch và xuất bản, Hà Nội, 2009, tr.149.
[29]Bộ Quốc
phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
1945-1954, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.1, tr.451.
[31] Lịch sử
Sư đoàn 308 Quân Tiên Phong,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,1999, tr. 59.
[32] Bộ Quốc
phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch
sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Sđd, t.4, tr.56.
[33] Bộ Quốc
phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch
sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Sđd, t.4, tr.54.
[34] Bộ Quốc
phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch
sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Sđd, t.4, tr.53.
[35] Lịch sử Sư đoàn 308 Quân Tiên Phong,Sdd, tr. 59.
[38] Đó là
những tiêu chí: Hoàn toàn trung thực
vững vàng về chính trị, tư tưởng tiến bộ, tính kỷ luật cao, tác phong đứng đắn,
có thể đoàn kết cán bộ, có năng
lực nghiệp vụ nhất định và có tri thức xã hội nhất định, có trình độ văn hóa từ cấp 2 trở lên,
tuổi dưới 40...Các cố vấn được
đích thân các lãnh đạo đại quân thân thẩm tra, sau đó tiếp tục được Trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc thẩm tra, những người không đạt yêu cầu thì trả về,
điều động người khác. (Nguồn: Ghi chép thực về Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống
Pháp, Sđd, tr.42).
[39] Bộ Quốc
phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch
sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Sđd, t.4, tr.56.
[40] Xiaobing
Li: A History of the Modern Chinese Army, (Lexington, KY: The University
Press of Kentucky, 2007), p.209.
[42] Có một chi tiết sau
này được La Quý Ba kể lại: Trần Canh là vị tướng do chính Hồ Chí Minh điểm danh
với Mao Trạch Đông đã được cử sang Việt Nam từ đầu tháng 7-1950 để cùng phía Việt
Nam chuẩn bị chiến dịch Biên giới (Nguồn: Trần Trọng Trung, “Trung Quốc giúp đỡ
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp”, Báo Quân đội nhân dân, ngày 2-5-2009).
[43] Sự thật về những lần xuất quân của Trung
Quốc và quan hệ Việt - Trung, Nxb Đà Nẵng, 1996, tr. 22.
[44] Sự thật về những lần xuất quân của Trung
Quốc và quan hệ Việt - Trung, Sđd, tr. 22.
3. Tư
liệu nghiên cứu về quan hệ Trung Quốc với Việt Nam từ năm 1948 đến năm 1979,
tập 1, Cục Nghiên cứu Bộ Quốc phòng, 1988, bản đánh máy, tr. 30.
[45] Đó là các chiến dịch Biên giới, Trung du, Đường 18, Hà – Nam – Ninh, Tây
Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ.
[46] Trần Trọng Trung: “Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Pháp” (phần II), Báo Quân đội nhân
dân, ngày 3-5-2009.
[48] Trần Trọng Trung: “Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Pháp” (phần II), Tlđd.
[49] Ghi chép thực về Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống
Pháp, Nxb. Lịch sử Đảng Cộng
sản Trung Quốc, Bắc Kinh, 2002 (Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch; Dương Danh
Dy hiệu đính),tr. 264.
[50] Tổng quân số bộ đội
chủ lực của Bộ Tổng tư lệnh, chủ lực các liên khu và các khu, bộ đội địa phương
các tỉnh, huyện lên tới 300.000 người. Khối quân chủ lực của Bộ Tổng Tư lệnh gồm
6 đại đoàn bộ binh và một đại đoàn công pháo cùng nhiều trung đoàn độc lập. Bộ
đội chủ lực của Liên khu Việt Bắc, Khu Tây Bắc, Khu Tả Ngạn, Khu Hữu Ngạn, Liên
khu 4, Liên khu 5 đã được tổ chức tới cấp trung đoàn. Bộ đội địa phương ở nhiều
tỉnh tổ chức đến cấp tiểu đoàn, nhiều huyện đã có đại đội. Riêng Nam Bộ là nơi
xây dựng bộ đội tập trung khó khăn cũng xây dựng được một số tiểu đoàn chủ lực
mạnh. Ngoài ra còn có hàng chục vạn du kích khắp các tỉnh Đông Bắc, Tây Bắc, đồng
bằng Bắc Bộ, Bình-Trị-Thiên, Liên khu 5 và đồng bằng Nam Bộ (Nguồn: Bộ Quốc
phòng, Viện Lịch sử quân sự: Lịch sử hậu
cần kỹ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb.
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.251).
[51] Bernard
B Fall: Hell in a Very Small Place: The
Siege of Dien Bien Phu, Da Capo Press, 2002, p.4.
[52] Hăng-ri
Na-va (H.Navarre). Thời điểm của những sự thật, Nxb Công an Nhân dân,
Viện lịch sử quân sự Việt Nam H, 1994, tr. 90.
[53] Bernard
B Fall: Hell in a Very Small Place: The
Siege of Dien Bien Phu, Ibid, p.5.
[54] Bộ Quốc
phòng, Viện Lịch sử quân sự: Lịch sử hậu
cần kỹ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb.
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 296.
[55] Micheal
Clodfelter, Vietnam in Military Statistics, A History of the Indochina Wars,
1772-1991, Ibid, p. 28.
[56] Dẫn theo
Nguyễn Phương Hoa: Viện trợ của Trung
Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu
Trung Quốc, tr.46.
[57] Trần Trọng Trung: “Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Pháp” (phần II), Tlđd.
[58] Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt – Trung, Nxb. Đà Nẵng, 1996, tr.39.
[59] Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ - Điểm
hẹn lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 348.
[60] Tổng cục Hậu
cần: Công tác đảm bảo hậu cần trong chiến
dịch Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 309.
[61] Hoàng
Minh Phương: Hồi ức chiến
dịch Điện Biên Phủ, tham luận tại hội thảo khoa học “Kỷ niệm 50
năm chiến dịch Điện Biên Phủ và Hội nghị Geneve”, Đại học Bắc Kinh, Trung Quốc,
2004, tr.4.
[62] Một là : Dùng
toàn bộ lực tượng bộ binh dưới sự yểm trợ của pháo binh và cao xạ, nhiều hướng
cùng một lúc tiến công vào tập đoàn cứ điểm, hướng chính thọc sâu vào Sở chỉ
huy, giống như một lưỡi gươm đâm thẳng vào tim, tạo nên sự rối loạn ở trung tâm
phòng ngự địch ngay từ đầu rồi từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào tiêu diệt
địch trong thời gian tương đối ngắn (oa tâm trạng chiến
thuật). Hai là : Bao vây địch dài ngày rồi đánh dần từng bước một,
lần lượt tiến công từng trung tâm đề kháng bằng nhiều trận công kiên kế tiếp,
tiến tới tiêu diệt hoàn toàn quân địch (bóc bì chiến thuật);
(Nguồn: Hoàng
Minh Phương: Hồi ức chiến
dịch Điện Biên Phủ,
Tlđd, tr.4).
[68] BCH Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc đề ra kế hoạch giải phóng Đài Loan vào năm 1950. Ngay sau khi
chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Đảng Cộng sản Trung Quốc lập tức quyết định
hoãn kế hoạch giải phóng Đài Loan để tập trung cho vấn đề Triều Tiên. Trong thời
gian diễn ra chiến tranh Triều Tiên, Tưởng Giới Thạch đã kịp cũng cố vững chắc
mọi mặt và thời cơ giải phóng Đài Loan qua đi. Hơn nữa, sau chiến tranh Triều
Tiên, Mỹ coi Đài Loan là một phòng tuyến chống cộng, ra sức bảo vệ Đài Loan,
làm kế hoạch giải phóng Đài Loan càng khó trở thành hiện thực (xem thêm: Chai
Chenwen and Zhao Yongtian (1989), Banmendian tanpan, The Panmunjom Negotiation,
Beijing: The Press of the People's Liberation Army).
[69] Bộ Quốc
phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch
sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Sđd, t.4, tr.56.
[70] Duiker William: Ho Chi Minh: A Life, New York,
Hyperion, 2000, p.426-427.
[73] Hội nghị
Trung ương 4 (1-1953) thông qua Dự thảo
Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về chính sách ruộng đất.
[76]Yinghong Cheng: “Not only Moscow: The Impact
of the Chinese
in Eastern Europe
and North Vietnamese post-Stalin era”, Modern
China Studies, USA, 2007, p.48.
[77] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa II từ ngày
25 đến ngày 30-1-1953, www.cpv.org.
[78] Hồ Chí Minh: Bài nói chuyện ở lớp chỉnh Đảng Trung ương
khoá II (10-4-1953), Tài liệu lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
[79] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Hội
nghị Trung ương lần thứ 14 về tổng kết cải cách ruộng đất, Tlđd.
[80] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Hội nghị lần thứ 4, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (khóa II), www.cpv.org.vn
[81] Bài giới thiệu tác phẩm “Kháng chiến nhất định
thắng lợi” trên Báo Nhân dân viết: “Đảng có đường lối chính trị và
đường lối quân sự đúng đắn, lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Mao Trạch Đông
làm nền tảng” và đồng chí Trường Chinh
“đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lê-nin
và tư tưởng Mao Trạch Đông để phân tích quy luật chiến tranh cách mạng của nhân
dân Việt Nam, vạch rõ phương châm chiến lược và chiến thuật của cuộc trường kỳ
kháng chiến” (Báo Nhân dân ngày 2-1-1956). Bài xã luận “Mừng 30 năm thành công vĩ đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc” (báo
Nhân
dân ngày
28-1-1951) có đoạn: Chúng ta “học tập kinh nghiệm phong phú của Đảng Cộng sản
Trung Quốc về mọi mặt: Đấu tranh vũ trang, kinh tế, tài chính, chính sách mặt
trận, chính quyền dân chủ nhân dân v.v…”. Điện Đảng Lao động Việt Nam gửi Đảng
Cộng sản Trung Quốc nhân Đại hội lần thứ
II Đảng Lao động Việt Nam ghi rõ: “Đảng Lao động Việt Nam nguyện noi gương anh
dũng Đảng Cộng sản Trung Quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lãnh
đạo nhân dân Trung Quốc và các dân tộc Á Đông trên con đường độc lập và tự chủ”
(báo
Nhân
dân ngày
28-1-1951). ). Trong báo cáo North
Vietnam and sino-soviet relations của CIA, khi đánh giá về ảnh hưởng của
Trung Quốc đối với Việt Nam trước năm 1954 có viết: “Những người cộng sản Việt
Nam đã coi tư tưởng Mao Trạch Đông và chủ nghĩa Mác-Lenin là kim chỉ nam cho hành
động, lựa chọn chiến lược cách mạng theo kiểu Trung Quốc, lấy mô hình tổ chức
Đảng, quân đội, tổ chức xã hội và thậm chí cả mô hình pháp luật Trung Quốc áp
dụng tại Việt Nam. Họ đã tạo cho Trung Quốc một sân chơi khá rộng” (Nguồn: North Vietnam and sino-soviet relations,
4 March
1962, Office of Current Intelligence, Central Intelligence Agency,
OCI No. 1002/62; Copy No. 133, p.4).
[82] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Hội
nghị Trung ương lần thứ 14 về tổng kết cải cách ruộng đất, www.cpv.org.vn
[83] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Hội
nghị Trung ương lần thứ 14 về tổng kết cải cách ruộng đất, Tlđd.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!