Thứ Tư, 9 tháng 4, 2014

“VÀNH ĐAI DIỆT MỸ” – MỘT HÌNH THỨC “TOÀN DÂN ĐÁNH GIẶC”

Hồ Khang & Nguyễn Văn Minh
Thất bại trong chiến tranh đặc biệt, từ giữa mùa hè 1965, các đơn vị lớn quân Mỹ bắt đầu ồ ạt đổ vào miền Nam Việt Nam, tiến hành chiến tranh cục bộ. Dựa trên tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh, có quân đông và vũ khí hiện đại, đế quốc Mỹ tin rằng: các đơn vị chiến đấu Mỹ sẽ nhanh chóng “bẻ gãy xương sống Việt cộng”, tiêu diệt Quân giải phóng, giành lại thế chủ động chiến trường, cứu quân đội và chính quyền miền Nam đang suy sụp. Vừa đặt chân lên bờ, quân Mỹ nhanh chóng chiếm lĩnh những vị trí then chốt có ý nghĩa chiến lược để làm bàn đạp và biến những vị trí đó thành những căn cứ quân sự lớn: căn cứ tác chiến của các sư đoàn, thiết đoàn, của không quân, hải quân; làm nơi xuất phát những cuộc hành quân “tìm diệt”; căn cứ hậu cần – kỹ thuật, nơi tích trữ lực lượng, vũ khí, phương tiện chiến tranh. 

Quân Mỹ đã sử dụng một khối lượng lớn bom, đạn, đánh phá dữ dội vùng giải phóng xung quanh các căn cứ, kết hợp với quân đội Sài Gòn mở các cuộc hành quân càn quét, dồn dân, nhằm thiết lập vành đai an toàn cho cả một hệ thống căn cứ quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Để xây dựng căn cứ Chu Lai, đối phương đã đánh phá các xã Kỳ Sanh, Kỳ Liên, Kỳ Anh, Kỳ Khương, Kỳ Hòa… suốt ngày đêm. Chỉ tính riêng xã Kỳ Sanh rộng không quá 50 km2 với 8000 dân, trong suốt 12 ngày đầu tháng 6 năm 1965 đối phương đã ném 500 quả bom các loại. Trung bình mỗi tháng, Kỳ Sanh phải chịu 37 trận càn quy mô từ 2 trung đội đến 6 tiểu đoàn Mỹ và quân đội Sài Gòn, có máy bay, pháo binh và xe tăng yểm trợ. Ở Tây Ninh, sau khi lữ đoàn 196 Mỹ đổ quân xây dựng căn cứ Trảng Lớn, những cánh rừng nơi đó nhanh chóng bị bom đạn và chất độc hóa học Mỹ tàn phá, hủy diệt. Các xã Bình Đức, Thạch Phú sát căn cứ Đồng Tâm bị đối phương đánh phá ác liệt, chỉ còn lại một hai đảng viên và vài ba du kích trụ bám. Ở căn cứ An Khê, khi sư đoàn kỵ binh không vận số 1 đến, bom đạn Mỹ liên tiếp dội xuống các vùng xung quanh, nhân dân xã Bắc phải dời làng đi nơi khác sống, v.v.
Tình hình trên đây đặt ra cho các cấp ủy Đảng ở địa phương miền Nam một vấn đề nóng bỏng phải giải quyết: làm thế nào để quân và dân từng địa phương bám trụ tại chỗ, đánh Mỹ, diệt quân đội Sài Gòn ngay tại tại mảnh đất quê hương? Trong điều kiện quân Mỹ có trang bị, vũ khí hiện đại, sức cơ động nhanh, hỏa lực nhiều và mạnh, nếu chỉ dùng phương thức tác chiến như trong thời kỳ “chiến tranh đặc biệt” thì khó thắng được quân Mỹ. Phải tìm cách bao vây và tiến công, hạn chế những mặt mạnh cơ bản của đối phương, đánh đối phương từ nơi xuất phát, đánh gần. Muốn vậy, phải tạo nên một vành đai xung quanh căn cứ Mỹ, trong đó xây dựng một lực lượng mạnh đủ sức làm nòng cốt cho toàn dân bám trụ và phải lấy tiến công tiêu diệt đối phương làm phương thức chủ yếu để tồn tại.
Theo tư tưởng tiêu diệt đối phương để làm chủ, làm chủ để tiêu diệt, các cấp ủy đảng địa phương đã kịp thời lãnh đạo nhân dân và lực lượng vũ trang bám trụ bằng cách trên cơ sở những làng xã chiến đấu đã có, phát triển, xây dựng thành những “Vành đai diệt Mỹ”. Đó là hệ thống những thôn, xã chiến đấu áp sát, bao vây quanh các căn cứ quân sự Mỹ, được tổ chức thành thế trận vây hãm và tiến công đối phương ngay tại căn cứ chỉ huy và xuất phát hành quân của đối phương.
“Vành đai diệt Mỹ” xuất hiện là sự kế tục và phát triển lên một trình độ mới những làng xã chiến đấu và phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân địa phương đã từng tồn tại và chiến thắng trong kháng chiến chống Pháp trước đây cũng như trong “chiến tranh đặc biệt” vừa qua. Hình thức “toàn dân đánh giặc” này ra đời cho phép lực lượng vũ trang và nhân dân các xã xung quanh căn cứ Mỹ trụ bám vững chắc trên quê hương, vừa sản xuất, vừa chiến đấu và đấu tranh trực diện với kẻ thù bằng cả tiến công quân sự, đấu tranh chính trị và thực hành binh vận. Trên một thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, rộng khắp, quân và dân các xã Vành đai đã thực hiện chủ động tiến công đối phương kết hợp với phòng giữ vững chắc, tiêu hao tiêu diệt đối phương để giữ vững quyền làm chủ, làm chủ để tiêu diệt đối phương đạt hiệu quả ngày càng cao.
Ngay sau khi thành lập, quân dân Vành đai Chu Lai đã dựa vào thế trận được xây dựng, chiến đấu tiêu diệt một đại đội bảo an, hai trung đội dân vệ vào sáng 28 tháng 5 năm 1965. Được sự hỗ trợ của đòn quân sự, nhân dân các xã đã nổi dậy diệt ác, phá kìm, giải phóng hoàn toàn hai xã Kỳ Xuân, An Xuân và 5 thôn của Kỳ Hòa, Kỳ Khương với số dân 13.000 người. Ở Vành đai Rạch Kiến (Long An) sau 3 tháng kể từ khi thành lập, quân dân 12 xã Vành đai đã tiêu diệt hơn 1000 tên Mỹ, đánh thiệt hại một tiểu đoàn quân đội Sài Gòn, phá hỏng 20 xe quân sự, bắn cháy 20 máy bay, giữ vững các thôn xã giải phóng. Trải qua 2250 ngày đêm chiến đấu (1965 – 1972), quân dân Vành đai Trảng Lớn (Tây Ninh) đã đánh 3825 trận, tiêu diệt hàng ngàn Mỹ, quân đội Sài Gòn, bắn hỏng, bắn cháy hàng trăm xe quân sự và tàu xuồng chiến đấu trên sông, trừng trị nhiều tên “cán bộ bình định” và ác ôn, bảo vệ vững chắc quyền làm chủ địa phương. Trên thực tế “Vành đai diệt Mỹ” là một hình thức đánh địch của toàn dân, thực hiện làm chủ và tiến công, tiêu hao, tiêu diệt địch rất rộng lớn, xây dựng, phát triển lực lượng, bảo vệ vùng giải phóng.
Ai cũng biết nhảy vào miền Nam, quân Mỹ quyết giành lại thế chủ động, “đánh gãy xương sống Việt cộng” bằng các cuộc hành quân “tìm diệt”. Nhưng, từ đầu và suốt thời gian tham chiến trên chiến trường miền Nam, quân viễn chinh Mỹ chẳng những không giành lại được thế chủ động chiến trường, không diệt được chủ lực, mà còn bị quân và dân tmn Việt Nam tiến công liên tục ngay tại căn cứ của đối phương, buộc đối phương phải thường xuyên đối phó bị động, phải xé lẻ lực lượng phòng giữ căn cứ, điều mà quân đội Mỹ “tối kỵ”. Hệ thống “Vành đai diệt Mỹ” ở miền Nam đã góp phần quan trọng vào việc đẩy đội quân viễn chinh Mỹ bị hãm vào tình thế đó. Dựa vào công sự, trận địa và giao thông hào chiến đấu, lực lượng Vành đai đã thực hành vây hãm căn cứ Mỹ, sử dụng các tổ đội đặc công, trinh sát, các đội pháo, súng cối chuyên trách, các tổ bắn tỉa, các tổ, đội nữ pháo binh liên tục tiến công, tiêu hao binh lực đối phương. Nếu đối phương nống ra ngoài càn quét thì bị hệ thống các bãi chông, mìn, bẫy, bố trí xung quanh Vành đai sát thương. Sự tồn tại ngang nhiên của các Vành đai diệt Mỹ” đã trở thành áp lực đe dọa ngày càng tăng, uy hiếp nặng nề các căn cứ quân sự Mỹ, khiến đối phương thường xuyên căng thẳng, luôn luôn nơm nớp lo sợ, bị động đối phó.
Quân Mỹ phải sử dụng một bộ phận lực lượng liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét nống ra xung quanh nhằm tạo lập và nới rộng vành đai trắng an toàn cho căn cứ. Trong các cuộc hành quân đó, bao giờ đối phương cũng chiếm ưu thế về binh lực tập trung và hỏa lực yểm trợ. Nhưng, lực lượng vũ trang và nhân dân các xã Vành đai đã dựa vào thế trận được chuẩn bị, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động, liên tục tiến công vào chính diện, bên sườn và sau lưng quân Mỹ; buộc đối phương phải đánh theo cách đánh của quân giải phóng, hạn chế tối đa những mặt mạnh vốn có của đối phương. “Hậu phương” của đội quân viễn chinh luôn luôn bị đe dọa, bị tiến công, khiến cho quân Mỹ phải thường xuyên sử dụng ít nhất là 1/3 lực lượng để bảo vệ căn cứ, không tập trung được lực lượng vào các cuộc hành quân “tìm diệt”, chủ lực Quân giải phóng. Ví như, lính thủy đánh bộ Mỹ là một trong những binh chủng mạnh nhất của quân đội Hoa Kỳ, nhưng sau khi vào miền Nam đã “phải tập trung cố gắng vào việc phòng thủ 3 căn cứ Chu Lai, Phú Bài, Đà Nẵng” [i]. Cuộc chiến đấu của nhân dân Vành đai, bởi thế, đã kìm giữ, giam chân một bộ phận lực lượng cơ động quân Mỹ, góp phần cùng với quân và dân ở các nơi khác trên khắp chiến trường buộc đối phương phải phân tán, dàn mỏng lực lượng, bộc lộ sơ hở, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực Quân giải phóng tập trung được ưu thế binh, hỏa lực trên hướng chính, chiến dịch và trong những trận then chốt, tiêu diệt từng bộ phận quan trọng, đập tan các cuộc hành quân lớn của đối phương.
Ở “Vành đai diệt Mỹ”, ngoài lực lượng các xã vành đai, các xã, huyện kế cận đã luân phiên đưa du kích, bộ đội địa phương đến hoạt động tác chiến trong từng thời gian, vừa để chi viện cho Vành đai, vừa rút kinh nghiệm chuẩn bị sẵn sàng đánh Mỹ khi đối phương đến. Đồng thời, bộ đội chủ lực cơ động của Quân giải phóng dựa vào “Vành đai diệt Mỹ” mở những trận tiến công bằng bộ binh, pháo binh, đặc công vào căn cứ Mỹ. Nhờ có “Vành đai diệt Mỹ” mà lực lượng vũ trang giải phóng đã thực hiện được hàng nghìn trận đánh sâu vào căn cứ đối phương, trong đó trận tiến công vào căn cứ Đồng Dù (ngày 26-7-1966), căn cứ Biên Hòa (ngày 28-10-1966), căn cứ An Khê và sân bay Plây Cu (ngày 29 tháng 2 và 24 tháng 4 năm 1966), căn cứ Chu Lai (ngày 20 tháng 2 và 3 tháng 3 năm 1966), sân bay Đà Nẵng (ngày 24 tháng 1 năm 1966)… đã gây cho đối phương tổn thất nặng nề. Chỉ kể các trận tiến công vào sân bay Đà Nẵng trong tháng 4 năm 1969 đã tiêu hủy 38.000 tấn bom đạn và 20.000 thùng dầu, đánh đòn nặng vào các kho tồn trữ hành quân của Mỹ. Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 1 Mỹ làm nhiệm vụ bảo vệ các cửa ngõ vào căn cứ Đà Nẵng đã phải “chiến đấu ác liệt… để đẩy đối phương khỏi vành đai có thể đặt tên lửa bắn vào Đà Nẵng. Chỉ sau một thời gian ngắn, việc liên tục tuần tra các cánh đồng và làng mạc đầy mìn, bẫy đã gây cho quân Mỹ nhiều tổn thất” [ii]. Rõ ràng “Vành đai diệt Mỹ” tồn tại, phát triển không những tạo nên thế trận vây hãm đối phương mà còn là bàn đạp tiến công lợi hại để bộ đội chủ lực đánh sâu vào các căn cứ của đối phương, là nơi rèn luyện tinh thần và cách đánh cho lực lượng du kích, bộ đội địa phương các nơi khác.
Để có những “Vành đai diệt Mỹ” vừa chủ động tiến công đối phương liên tục, vừa phòng giữ kiên cường, bảo tồn và phát triển được lực lượng quân giải phóng, đồng bào và chiến sĩ các xã quanh căn cứ Mỹ đã phải vượt qua những thử thách gay go, ác liệt, trụ bám địa bàn, thắng đối phương từng bước mới xây dựng được. Do đó, “Vành đai diệt Mỹ” không chỉ tập hợp giản đơn các làng xã chiến đấu đã có, mà phải là sự gắn kết chặt chẽ và thống nhất về tổ chức chỉ huy giữa các lực lượng, các đơn vị bộ đội, xây dựng lực lượng và hệ thống công sự, trận địa thành một thế trận liên hoàn vững chắc. Toàn bộ lực lượng trực tiếp tác chiến thường xuyên của Vành đai và lực lượng cơ động của khu, tỉnh, huyện… đều hoạt động theo phương án hiệp đồng tác chiến thống nhất, hỗ trợ cho nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân trên Vành đai. Cùng với những hoạt động của các tổ săn cơ giới, bắn máy bay, các tổ đội bắn tỉa, pháo, súng cối được tổ chức gọn nhẹ, cơ động linh hoạt, kìm giữ, đánh tiêu hao, sát thương đối phương, gây cho đối phương căng thẳng thường xuyên, là những đòn đánh tiêu diệt quy mô vừa của bộ đội chủ lực, nhằm tiêu diệt từng bộ phận lực lượng quan trọng của quân Mỹ, tạo nên những rung động mạnh trong căn cứ đầu não của đối phương.
Trong điều kiện lực lượng chiến đấu gồm nhiều thành phần, thường xuyên đối diện trực tiếp với quân Mỹ, tình huống diễn biến phức tạp…, Vành đai tổ chức Ban chỉ huy chung gồm chỉ huy trưởng, chính trị viên và các chỉ huy phó do Thường vụ tỉnh ủy lãnh đạo và Ban chỉ huy quân sự tỉnh chỉ huy. Nhiệm vụ của ban chỉ huy chung là tổ chức các hoạt động quân sự, chính trị và binh vận trên toàn tuyến Vành đai phù hợp với ý định của cấp trên và tình hình, nhiệm vụ, khả năng của địa phương. Vành đai lại được tổ chức thành hai hoặc nhiều tuyến chiến đấu. Một số Vành đai như Trảng Lớn, Bình Đức… được phân thành các cụm hoặc các mặt trận. Mỗi cụm, mỗi mặt trận lại được phân thành các tuyến. Tuyến một, bao gồm những thôn, xã trực tiếp tiếp xúc với căn cứ Mỹ, xây dựng cho được một hệ thống công sự, hào giao thông kiên cố, bí mật, bất ngờ bảo đảm phát huy được mọi loại hỏa lực và cách đánh, đồng thời che dấu được lực lượng giải phóng và do một bộ phận lực lượng nhỏ chiếm giữ. Thường là những tổ trinh sát, bắn tỉa, tổ đặc công, tổ du kích… Do đó, phổ biến ở tuyến một là công sự bắn tỉa, hầm chông, bãi mìn, lựu đạn gài và các loại bẫy.
Tuyến hai là những thôn, xã chiến đấu bao quanh tuyến một. Lực lượng cơ bản của Vành đai thường bố trí ở tuyến hai. Ở tuyến này, quân dân Vành đai đã xây dựng hệ thống công sự, trận địa vững chắc đánh bộ binh, xe tăng, xe bọc thép và máy bay; các hầm trú ẩn liên kết với những hào giao thông ngang dọc, từ xã này qua xã khác thành thế trận liên hoàn. Nhờ đó, trong chiến đấu, các lực lượng tham gia tác chiến trên Vành đai có thể cơ động nhanh, bí mật, kịp thời chi viện cho nhau trong những tình huống gay cấn, đồng thời phân tán nhanh lực lượng, hình thành các mũi bất ngờ tiến công vào sườn hoặc sau lưng đối phương. Các Vành đai còn có hệ chống địa đạo kiên cố. Trên những trục đường và những hướng đối phương có thể đột nhập bất ngờ, (đặc biệt vào thời kỳ đầu, khi đối phương dùng chiến thuật phân đội nhỏ thọc sâu) quân dân Vành đai còn bố trí hầm chông, bãi mìn, các loại bẫy, dựng chướng ngại vật, đào các hào sâu để ngăn xe cơ giới.
Thông thường, ngoài tuyến một và tuyến hai, các Vành đai còn tổ chức tuyến trung gian nhằm tăng thêm chiều sâu của thế trận. Khắp Vành đai, ở nơi công cộng và trong mỗi gia đình, ngoài các loại hầm chiến đấu, hầm trú ẩn và hầm cất giấu tài sản, gia súc…, là một hệ thống hầm bí mật được xây dựng công phu, luôn luôn cải tiến về kỹ thuật và dời chuyển vị trí. Đây là loại công sự nhằm che giấu và bảo tồn lực lượng, thực hiện “3 bám” (bám đất, bám dân, bám đánh đối phương), bảo đảm thế chủ động, liên tục tiến công. Ở Vành đai An Khê, nhiều hầm bí mật có thể chứa 70, 80 người, có thể che dấu được một lực lượng cỡ trung đội, đại đội.
Tuy nhiên, không phải “Vành đai diệt Mỹ” nào cũng bố trí lực lượng và có cấu trúc giống nhau. Tùy điều kiện, nhiệm vụ, khả năng, địa hình, quân dân Vành đai đã sáng tạo trong cách bố trí và xây dựng hệ thống công sự, trận địa, không ngừng cải tiến và hoàn thiện nó. Trước một đội quân có hỏa lực mạnh, cơ động nhanh, có thể đánh từ xa và lắm thủ đoạn…, quân và dân các xã vành đai không chỉ dựa vào công sự, trận địa để thắng đối phương mà còn phải xây dựng cho mình một lập trường chính trị kiên định, vững vàng trước mọi thử thách, một ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc ngoại xâm, một lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha. Đó là sức mạnh to lớn của nhân dân Vành đai – một nhân dân thủy chung với cách mạng, có giác ngộ chính trị cao, được tổ chức chặt chẽ, có nghệ thuật đánh giặc tài giỏi.
Trong đạn bom ác liệt của kẻ thù, “Vành đai diệt Mỹ” miền Nam đã đứng vững, tồn tại và chiến thắng. Đó là một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam; thể hiện sự vận dụng linh hoạt quan điểm “toàn dân đánh giặc”, tư tưởng chiến lược tiến công và làm chủ của quân và dân miền Nam trong cuộc đương đầu lịch sử với đội quân xâm lược mạnh nhất, hiện đại nhất của chủ nghĩa đế quốc. “Vành đai diệt Mỹ” thực sự là một phát triển mới và làm phong phú thêm kho tàng kinh nghiệm và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới.



[i]. S. L. Xtentơn: Sự thăng trầm của đạo quân đánh bộ Hoa Kỳ ở Việt Nam, Nxb Presido Press, 1986. Minh Bảo lược dịch, đăng trong Tạp chí Lịch sử quân sự, số tháng 8-1987.
[ii]. S. L. Xten-tơn – Sự thăng trầm của đạo quân đánh bộ Hoa Kỳ ở Việt Nam, sách đã dẫn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!