PGS,TS.
Hồ Khang
Viện Lịch
sử quân sự VN
1. Cục diện đối đầu Đông – Tây và chính sách
đối ngoại của Trung Quốc
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quan
hệ đồng minh bất
đắc dĩ Xô - Mỹ nhanh chóng tan vỡ, hai nước chuyển sang trạng
thái đối đầu quyết liệt, cạnh
tranh sức mạnh ở cả vũ đài trung tâm lẫn ở vùng ngoại vi. Bước ra từ Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ trở thành nước có tiềm lực
kinh tế và quân sự mạnh nhất, có thể nói bằng tất cả các nước tư bản cộng lại.
Với ưu thế về vũ khí hạt nhân, Mỹ có những kế hoạch to lớn trên con đường trở
thành siêu cường có khả năng định hướng toàn cầu. Mùng 6-4-1946, Tổng thống Mỹ
Truman tuyên bố: “Ngày nay, Hoa Kỳ là quốc gia mạnh, nghĩa là với một sức mạnh
như thế, chúng ta có nghĩa vụ nắm quyền lãnh đạo thế giới”[1].
Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ nhìn nhận hoạt động củng cố vòng cung an
ninh châu Âu của Liên Xô như “sự thống trị lục địa bởi một quốc gia duy nhất và
thù địch với Mỹ, có thể đe dọa đến an ninh quốc gia của Mỹ”[2].
Trên thực tế, các nước ở Trung, Đông Âu sau khi được giải phóng, dưới
sự giúp đỡ của Liên Xô, đều đã lựa chọn con đường dân chủ nhân dân. Đó là một
đảm bảo để Liên Xô củng cố địa vị của mình tại trung tâm thế giới - châu Âu; đồng
thời, mở rộng ảnh hưởng ra những khu vực khác. Năm 1949, Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Trung Hoa ra đời đã tạo nên sự thay đổi đáng kể trong cán cân lực lượng
trên vũ đài quốc tế. Như
thế, chính điểm tương đồng về mục tiêu chiến lược của cả Mỹ và
Liên Xô đã đẩy hai nước trôi về hai cực đối lập, trở thành đối thủ không khoan nhượng, hình thành cục diện Đông – Tây với
bầu không khí Chiến tranh Lạnh bao trùm toàn cầu. Trong
tình thế
xung đột, mâu thuẫn, Chiến tranh Triều
Tiên (1950) bùng phát, nhanh chóng trở thành đỉnh
cao đối đầu, nơi đọ sức quyết liệt giữa hai phe trên nền "trật tự
Yalta".
Trong
bối cảnh Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc duy trì quan hệ thường xuyên và tương đối
chặt chẽ với Liên Xô. Ít tháng
trước khi cách mạng Trung Quốc thành công, Lưu Thiếu
Kỳ có một vài chuyến đi bí mật tới Liên Xô. Tại cuộc hội đàm với Lưu Thiếu Kỳ
(7-1949), I.V.Stalin nhiệt thành khuyến khích Trung Quốc
có một vai trò lớn hơn trong thúc đẩy làn
sóng cách mạng ở châu Á và Đông Á[3].
Trong cuộc gặp tháng 8-1949, khi thảo luận về sự cần thiết phải tiến hành "cách mạng thế giới",
nhất trí cao về vị trí trung tâm cách mạng của Liên Xô, Lưu Thiếu Kỳ và I.V.Stalin thỏa thuận
thừa nhận vai trò đầu tàu đối với cách mạng Phương Đông của Trung Quốc[4].
Thực
hiện trách nhiệm “gánh vác” phong trào cách mạng khu vực Đông Á, xác định lợi ích an ninh quốc gia trong bối cảnh xung đột Đông
– Tây, khi chiến tranh Triều Tiên là biểu hiện tập trung nhất của mâu thuẫn giữa
hai phe xã hội chủ nghĩa - tư bản chủ nghĩa, tháng 10-1950, Trung Quốc đưa Quân chí
nguyện trực tiếp tham chiến trên chiến trường
Triều Tiên. Dương
cao ngọn cờ chống đế quốc, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, cũng từ năm 1950, Trung Quốc tích cực giúp đỡ Việt Nam DCCH kháng chiến
chống Pháp, xem “cuộc
kháng chiến ở Việt Nam do Đảng Việt Nam lãnh đạo rất đúng và rất hay. Đảng
Trung Quốc hết sức giúp đỡ Đảng Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ đó”[5].
Như vậy,
với nhận thức "các vấn đề trung tâm trong thế giới
sau Thế chiến thứ
hai là cách
mạng vô sản trên phạm vi toàn cầu”[6] và ý niệm về vai trò,
trách nhiệm của mình đối với phong trào cách mạng châu Á; đồng thời, nhằm khẳng định vị thế trong phong trào cách mạng khu vực, dần dần đặt dấu ấn
nước lớn với thế giới, ngoài nhiệm vụ xây dựng đất nước, Trung Quốc
đã phải dàn lực ra hai hướng, hỗ trợ cho Bắc Triều Tiên và Việt Nam DCCH. Kết
quả là chiến tranh Triều Tiên đã cướp đi sinh mạng của gần 1.000.000 Chí nguyện quân, để lại thương
tật cả đời cho hàng triệu người và gây ra những thiệt hại to lớn về vật chất. Năm 1950, 52% chi tiêu tài chính quốc gia của Trung Quốc là
chi phí quân sự, trong đó 60% dành cho viện trợ chiến tranh chống Mỹ; đến năm
1952, tuy chiến tranh đã bước vào giai đoạn giằng co, chi phí quân sự vẫn chiếm
tới 33% tổng chi tiêu tài chính quốc gia, trong đó phần chủ yếu được dùng vào
chiến tranh kháng Mỹ viện Triều[7]. Trong ba năm chiến tranh (1950-1953), Trung Quốc tiêu tốn
mất khoảng 10 tỷ USD[8], kế
hoạch năm năm lần thứ nhất buộc phải hoãn lại,
nợ Liên Xô 650 triệu USD[9] - một gánh nặng đối với nền kinh tế vốn lạc hậu, đang cần
nguồn lực phát triển của Trung Quốc. Không chỉ có vậy, những năm 1950-1953,
cải cách ruộng đất và chiến dịch chống “phản cách mạng” đã để lại hậu quả vô
cùng to lớn trong lòng xã hội Trung Quốc[10].
Dù
đang phải đối mặt với một số khó khăn, song bằng vai trò tích cực trong cuộc chiến tranh Triều
Tiên và việc giúp đỡ Việt Nam chống Pháp, Trung Quốc đã kịp khẳng định: Nước
Trung Quốc mới không chỉ đứng vững, mà còn đang lớn mạnh, từng bước thiết lập
vùng ảnh hưởng của mình. Những yếu tố kể trên tác động trực tiếp tới việc xác định
mục tiêu đối ngoại của Trung Quốc; theo đó: 1- Mục tiêu tổng quát là ổn định và
phát triển, hòa nhập vào hệ thống ngoại giao thế giới, từng bước khẳng định vị
trí nước lớn ở khu vực cũng như trên thế giới; 2- Mục tiêu cụ thể là chống lại sự phong tỏa toàn diện của các nước tư bản, ngăn
trở việc thành lập các liên minh quân sự, chính trị các nước phương Tây song song với mở rộng khu
vực đệm ở Nam Á và Đông Nam Á. Do vậy, chấm dứt chiến tranh Triều Tiên và chiến
tranh Đông Dương trở thành yêu cầu cấp bách của Trung Quốc và Trung Quốc phải
có một vai trò nhất định trong việc giải quyết các vấn đề này, để qua đó vươn
ra với thế giới, chứng minh một cách thuyết phục rằng, “trong rất nhiều vấn đề
quốc tế to lớn, đầu tiên là vấn đề châu Á, nếu không có sự tham gia của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa, đều không giải quyết được”[11].
2- Trung Quốc chuẩn bị cho Hội nghị Genève
Ngay sau
khi hiệp định ngừng bắn tại Triều Tiên được ký kết (27-7-1953), Liên Xô và
Trung Quốc đều nhất trí rằng cần giải quyết hòa bình cuộc chiến ở châu Á. Trong
xu thế hòa hoãn giữa các nước lớn, Liên Xô chủ trương thông qua đình chiến và
đàm phán hòa bình dập tắt ngọn lửa chiến tranh, sau đó tiến hành cạnh tranh
kinh tế với phương Tây. Tháng 11-1953, Liên Xô đề nghị tổ chức hội nghị ngoại
trưởng bốn nước lớn tại Berlin vào tháng 1-1954 để thảo luận các vấn đề của
châu Âu; đồng thời, đề nghị tổ chức hội nghị quốc tế bàn vấn đề Viễn Đông. Ngày 25-1-1954, Hội nghị Tứ cường khai
mạc tại Berlin. Trong Hội nghị, Ngoại trưởng Liên Xô Molotov yêu cầu khi
thảo luận các vấn đề Triều Tiên và Đông Dương, phải có sự hiện diện của Trung
Quốc, nêu rõ: “Trung Quốc đã trở thành lực lượng quan trọng trong cục diện
chính trị thế giới, các hội nghị quốc tế quan trọng nhằm giải quyết các vấn đề
châu Á nhất thiết phải có Trung Quốc tham gia”[12]. Tuy nhiên, đề nghị
này của Liên Xô bị Mỹ phản đối quyết liệt. Sau rất nhiều tranh luận và thuyết
phục, cuối cùng, ngày 18-2-1954, Hội nghị đồng ý để CHND
Trung Hoa tham gia Hội nghị Genève, song Mỹ vẫn kiên quyết tuyên bố:
“Việc Mỹ tham gia đàm phán không có nghĩa là Mỹ công nhận chính quyền của Đảng
Cộng sản Trung Quốc với bất cứ ý nghĩa nào”[13].
Gấp rút thông báo kết quả cho Trung Quốc, Liên
Xô chủ trương để Trung Quốc không những tham gia, mà còn phát huy tác dụng tích
cực tại Hội nghị. Về điểm này, Trung Quốc hoàn toàn nhất trí với Liên Xô, bởi
hai lý do: 1- Kể từ sau khi thành lập nước Trung Hoa mới, đây là lần đầu tiên
Trung Quốc có mặt tại một hội nghị quốc tế lớn được cả thế giới quan tâm theo
dõi – điều đó sẽ rất có lợi trong việc đề cao địa vị quốc tế của Trung Quốc; 2-
Nếu đàm phán tiến triển tốt, có thể giải quyết một số vấn đề quốc tế, còn nếu
không thành công, cũng có thể tuyên truyền chủ trương của Trung Quốc[14].
Tích cực
chuẩn bị cho “chuyến xuất quân ngoại giao” quan trọng, ngày 2-3-1954, tại Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chu Ân Lai trình bày
Báo cáo Ý kiến sơ bộ về những đánh giá đối
với Hội nghị Genève và công tác chuẩn bị, nêu định hướng: “Tích cực tham
gia Hội nghị Genève; đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao quốc tế, phá
vỡ sự phong tỏa cấm vận cũng như chính sách huy động quân đội chuẩn bị chiến
tranh của đế quốc Mỹ, thúc đẩy làm giảm căng thẳng trong cục diện quốc tế”[15].
Chu Ân Lai lên kế hoạch sử dụng diễn đàn Hội nghị Genève một cách có lợi nhất:
“Ngoài những vấn đề về Triều Tiên và Việt
Nam, phải chuẩn bị các vấn đề khác liên quan đến vùng Viễn Đông, đến hòa bình,
an ninh ở châu Á. Đặc biệt, phải tiến
hành các biện pháp nhằm phát triển quan hệ kinh tế, trao đổi thương mại với các
quốc gia khác nhau, làm giảm căng thẳng tình hình quốc tế, phá vỡ sự phong tỏa
và cấm vận của đế quốc Mỹ”[16].
Ngay
sau cuộc họp, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi điện cho Đảng Lao động Việt
Nam, thông báo rằng Trung Quốc và Liên Xô đều nhận định việc tổ chức Hội nghị
Genève sẽ có lợi cho Việt Nam, hy vọng Đảng Lao động Việt Nam tổ chức đoàn ba
nước Đông Dương tham gia Hội nghị, chuẩn bị tài liệu, tập trung nỗ lực lên các
phương án đàm phán. Trong bức điện, Chu Ân Lai gợi ý: “Nếu muốn đình chiến, tốt nhất nên có một giới tuyến tương đối cố định,
có thể bảo đảm được một khu vực tương đối hoàn chỉnh (…). Việc xác định giới
tuyến tại đâu, tại vĩ độ bao nhiêu cần phải xem xét từ hai vấn đề: Thứ nhất,
là phải có lợi cho Việt Nam; thứ hai, xem kẻ thù có thể chấp nhận hay
không. Đường giới tuyến này càng xuống phía Nam càng tốt. Có thể tham khảo vĩ
tuyến 16 độ Bắc”[17]. Như vậy, Chu Ân Lai là người đầu
tiên
đề xuất lấy mô hình Triều Tiên – chia cắt
thành hai miền, áp dụng cho trường hợp Việt Nam.
Ngày
3-3-1954, Tân Hoa Xã chính thức tuyên bố chính phủ Trung Quốc sẽ tham gia Hội
nghị Genève về vấn đề Triều Tiên và Đông Dương. Cùng ngày, Chu An Lai lệnh cho
Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng Nhân dânTrung Quốc chỉ thị cho Vi Quốc Thanh
và Mai Gia Sinh (lúc này đang có mặt tại Điện Biên Phủ) trao đổi, xem xét để Việt
Nam đánh tốt vài trận, phối hợp với đàm phán ở Genève. Ngay sau đó, Bộ Tổng
tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc gửi điện cho Vi Quốc Thanh nêu yêu
cầu: “Để giành thế chủ động về ngoại
giao, trước Hội nghị Genève, Việt Nam tổ chức vài trận đánh thắng lợi. Các đồng
chí nghiên cứu xem trong thời điểm hiện nay, liệu có khả năng chắc chắn đánh bại
quân địch ở Điện Biên Phủ? Hoặc theo điện chỉ
thị của Quân uỷ Trung ương ngày 9/2, triệt để tiêu diệt quân địch tại khu vực
giữa sông Nậm Rốn và sông Hồng, giải phóng khu vực đó, khai thông liên lạc với
Lào; đồng thời, tại Trung - Hạ Lào hoặc khu vực Liên khu Năm, phát động tấn
công phối hợp”[18].
Nhận thức
cuộc chiến ở Điện Biên Phủ “rất quan trọng không những về quân sự mà cả về
chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế”[19],
Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định tiến hành chiến dịch
Điện Biên Phủ vào ngày 13-3-1954. Sĩ quan tình báo Mỹ L. A. Patti nhận xét
về thời điểm phát động và mục tiêu chiến dịch: “Cái pháo đài mới được tăng
cường này đã có tầm quan trọng về chính trị và tâm lý hơn hẳn giá trị chiến
lược thực tế của nó vì Hội nghị Genève sắp khai mạc. Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đã thấy được một cách đúng đắn đây là một trận đánh có tính
chất quyết định, không phải chỉ nhằm giành được một chiến thắng vang dội mà sẽ
làm cho họ mạnh hẳn lên, họ đã chuẩn bị bao vây cứ điểm này”[20]. A. Patti phân tích rõ
thêm: “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng còn nhằm đánh cho quân đội Liên hiệp Pháp
một đòn chí tử để gây tác động tâm lý đối với nước Pháp, làm nhân dân Pháp và
những người chống cộng Việt Nam mất ý chí tiếp tục cuộc đấu tranh"[21].
Cùng
với việc bắt đầu chiến dịch, Việt Nam DCCH tích cực chuẩn bị tổ chức đoàn đại biểu tham
dự Hội nghị Genève, thảo luận sơ bộ các phương án sẽ nêu lên ở Hội nghị. Nghiên
cứu đề nghị của Trung Quốc, trong quá trình thảo luận, vấn đề khó khăn nhất là
việc xác định giới tuyến đình chiến và Việt Nam chưa nhất trí trong vấn đề này.
Ngày 6-3-1954, Phó trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam Kiều Hiểu Quang gửi
điện về Trung Quốc báo cáo tình hình: “Về
quan hệ với Pháp, vấn đề Pháp rút quân, vấn đề bầu cử tự do đều nhận định rằng
khó khăn không lớn. Khó khăn duy nhất và lớn nhất là xác định giới tuyến đình
chiến, không biết quyết định ra sao (…). Họ cho rằng đây là vấn đế lớn nhất,
khó nhất trong đàm phán. Lần thảo luận này chưa có kết luận gì (quyết định để bộ
phận quân sự đưa ra phương án rồi nghiên cứu tiếp)”[22].
Trong quá trình chuẩn bị cho Hội nghị Genève,
Trung Quốc duy trì liên lạc chặt chẽ với Liên Xô. Riêng trong tháng 4-1954, đã diễn
ra ba cuộc hội đàm giữa Chu Ân Lai với các nhà lãnh đạo Xô-viết. Chu Ân Lai
luôn nhấn mạnh: “Đây là lần đầu tiên Trung Quốc tham gia một hội nghị như vậy,
nên thiếu kiến thức và kinh nghiệm đấu tranh quốc tế, do đó Trung Quốc và Liên
Xô cần giữ liên hệ chặt chẽ, thường xuyên trao đổi ý kiến, thông tin tình báo,
hiệp đồng hành động” [23]. Nhìn chung, trong
các cuộc hội đàm, Chu Ân Lai cùng với các nhà lãnh đạo Liên Xô đi sâu xác định
phương châm, đối sách của hai bên cũng như các hoạt động phối hợp về ngoại
giao, nhất trí để phía Liên Xô soạn thảo phương án cụ thể cho các cuộc đàm phán
ở Genève, kiên trì phương hướng giải quyết vấn đề Đông Dương: “Vĩ tuyến 16 độ Bắc
có thể được coi là một trong những phương án để xem xét”[24]. Trong cuộc thảo luận có mặt đại diện Liên Xô, Việt Nam tại Matxcơva,
Chu Ân Lai phát biểu: “Hy
vọng rằng, trong thời gian diễn ra Hội nghị, hoặc tốt nhất là trước khi khai mạc
Hội nghị, quân đội Việt Nam có thể đánh thắng tại Điện Biên Phủ. Nếu quả đúng
như vậy, sẽ giúp phe phương Đông chiếm được vị trí rất có lợi tại bàn đàm phán”[25].
Suốt tháng 3 và nửa đầu tháng 4-1954, Chu Ân Lai đích
thân thụ lý, chỉnh sửa và thẩm định các văn bản liên quan đến Hội nghị Genève
như “Ý kiến sơ bộ về phương án hòa bình
thống nhất Triều Tiên”, “Ý kiến sơ bộ
về giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương”…; đồng thời, chuẩn bị nhân sự cho
Đoàn Ngoại giao. Ngày 20-4-1954, Đoàn đại biểu gồm hơn 200 người[26],
tập trung nhân tài ưu tú của ngành ngoại giao Trung Quốc khởi hành đi Genève. Chu Ân Lai tự hào nói về chất lượng của Đoàn
đại biểu: “Đây giống như một vở diễn lớn của Mai Lan Phương[27],
mỗi một người là một bộ phận hoàn hảo, tạo nên một khối thống nhất mạnh mẽ”[28]. Đoàn đại biểu Trung Quốc đến bàn đàm phán với tinh thần: “Trung Quốc là một nước lớn, đến Genève tham gia
một hội nghị quốc tế chính thức. Chúng ta đứng trên vũ đài quốc tế hát kịch
văn. Vì thế, trong kịch văn phải có kịch võ, nhưng nói tóm lại là kịch chính
quy, kịch võ đài”[29].
Quá
trình chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, toàn diện và cẩn trọng cho sự xuất hiện ở “vũ
đài” Genève không chỉ cho thấy những mục đích quan trọng, sâu sa của Trung Quốc
tại đó, mà còn phản ánh quyết tâm cao độ thực hiện kỳ được những mục đích này.
3- Trung Quốc tại Hội nghị Genève
Ngày 26-4-1954, Hội nghị Genève chính thức khai mạc, trùng với
thời điểm Quân đội nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi chiến
dịch tấn công đợt 2 ở Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ đang là tâm điểm chú ý của thế
giới. Tin tức dội về từ Điện Biên Phủ khiến Chu Ân Lai bước vào Hội nghị với
gương mặt mỉm cười, còn Ngoại trưởng Pháp Bidault lại có tâm trạng hết sức căng
thẳng.
Xác định Mỹ là đối thủ nguy hiểm, Trung Quốc không hề muốn thấy sự
hiện diện của Mỹ tại Đông Dương; vì thế, “tham gia đàm phán, Trung Quốc cố gắng
để người Pháp vẫn có thể giữ một vị trí nào đó ở Đông Dương, không để Mỹ thế
chân Pháp”[30]. Ưu
tiên hàng đầu của Trung Quốc là “ngăn chặn Mỹ đưa lực lượng quân sự vào Việt
Nam, áp sát biên giới Trung Quốc”[31].
Trong cuốn sách Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa, tác giả Dương Khuê Tùng phân
tích như sau: “Triều Tiên đình chiến, thái độ của Trung Quốc mới đối với cuộc chiến
tranh Đông Dương nhanh chóng trở thành một vấn đề buộc phải cân nhắc. Bởi vì,
cũng giống như chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Đông Dương sẽ thực sự trở
thành một điểm nóng đối kháng giữa Trung Quốc và Mỹ”[32]. Trung Quốc e ngại rằng, sau khi chiến tranh Triều Tiên kết
thúc, Mỹ tất yếu sẽ dồn sự chú ý nhiều hơn đến Đông Dương, khả năng xảy ra cuộc
đụng độ giữa Trung Quốc và Mỹ tại đây tăng lên đáng kể. Một nước Trung Quốc
thương tích đầy mình đứng trước nhiệm vụ khôi phục và xây dựng kinh tế hết sức
nặng nề không/chưa thể dính líu vào một cuộc xung đột với đối thủ đáng gờm,
nặng ký là Mỹ - đó chính là xuất phát điểm quan trọng để ngay từ rất sớm, Chu
Ân Lai luôn khăng khăng với “phương án vĩ tuyến 16” theo mô thức Triều Tiên làm
hình mẫu cho Việt Nam. Ngoài ra, “coi Hội nghị Genève như một
phương tiện mở cửa sang thế giới phương Tây”[33],
lần đầu
tiên có mặt tại một hội nghị quốc tế lớn với tư cách là một quốc gia châu Á
tham gia giải quyết vấn đề khu vực, ngoài vấn đề Triều Tiên và Việt Nam, Trung
Quốc còn quan tâm đến các vấn đề an ninh, hòa bình tại Viễn Đông, châu Á, các vấn
đề phát triển kinh tế, giao thương mậu dịch với phương Tây, từng bước phá vỡ cấm
vận, phong tỏa của Mỹ một cách hiệu quả. Hoạt
động của Trung Quốc tại Genève, vì thế, tất yếu được tính toán sao
cho phù hợp để có thể đáp ứng mục tiêu đó.
Toan tính của các nước lớn khiến Hội nghị Genève về Đông
Dương diễn ra căng thẳng, gay go, quyết liệt trong suốt 8 phiên họp
toàn thể và 23 phiên họp hẹp. Trong Hội nghị, Liên Xô duy trì chặt chẽ quan hệ
với Trung Quốc làm đối trọng, thúc đẩy đàm phán theo những kế hoạch được sắp đặt
trước. Hoạt động phối hợp của Liên Xô, Trung Quốc khá ăn ý. Suốt tiến trình Hội
nghị, Trung Quốc hầu như đồng ý hoàn
toàn với Liên Xô trong các vấn đề thương lượng. Để đảm bảo
lợi ích quốc gia, với vị trí là một nước viện
trợ quân sự chủ yếu và nắm con đường vận chuyển duy nhất chi viện cho Việt Nam,
trong điều kiện Pháp không muốn nói chuyện với Việt Nam ở thế yếu, trong xu thế
hòa hoãn chung, “lãnh đạo đoàn đại biểu Trung Quốc Chu Ân Lai đã không hỗ trợ
Việt Nam, đưa Việt Nam đến chỗ phải chấp nhận những điều khoản mà rõ ràng là không
hề thoải mái chấp nhận”[34].
Nói cách khác, những thỏa thuận trong việc giải quyết vấn đề Đông Dương đạt được
giữa Đoàn Trung Quốc với phía Pháp không phản ánh được tình hình thực tế cũng
như tương quan lực lượng trên chiến trường Việt Nam, chấm dứt chiến tranh ở
Đông Dương nương theo "mẫu mực" Triều Tiên, nghĩa là đình chỉ chiến sự
mà không có giải pháp chính trị dứt điểm. Phân tích quan điểm, lập trường của
Trung Quốc tại Hội nghị Genève, Giáo sư sử học Yang Kuisong (Đại học Bắc Kinh) lập
luận: “Mao
Trạch Đông tin rằng những nhượng bộ được thực hiện tại Genève là tạm thời và chiến thuật, bởi vì vào thời điểm đó, sức
mạnh mọi mặt của Trung Quốc cần tiếp tục được củng cố và Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa chưa đủ sức để theo đuổi một thắng lợi hoàn toàn”[35].
5 giờ
20 phút ngày 21-7-1954, Hội nghị Genève về Đông Dương tuyên bố bế mạc. Cùng với việc Hiệp định Genève được ký
kết, quan hệ Trung - Mỹ cũng thận trọng nhích dần từng bước – hai bên tổ chức hội
nghị liên lạc viên lần một và lần hai, bảo lưu con đường tiếp xúc tại Genève.
Đây chính là bước đệm thích hợp để sau này Trung, Mỹ bắt đầu tiến hành cuộc đàm
phán cấp đại sứ[36]. Nhìn
chung, Hội nghị Genève đã mang lại cho Trung Quốc những lợi ích to lớn: Về chính trị, Hội nghị chứng tỏ rằng,
trên phương diện giải quyết những vấn đề quốc tế cấp bách, sự tham gia của nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có vai trò quan trọng; về kinh tế, hai năm sau Hội nghị, khối lượng buôn bán giữa Trung Quốc
với các nước châu Âu tăng rõ rệt, “kim ngạch giữa Trung Quốc với châu Âu tăng gấp
đôi, nếu như tổng khối lượng đó năm 1954 là 173,4 triệu đô la, thì đến năm 1955
đã đạt 226,2 triệu và đến năm 1956 là 326 triệu”[37]; về đối ngoại, "việc
ký kết Hiệp định Genève đã đánh dấu sự mở rộng
ảnh hưởng của Trung Quốc trong các công việc quốc tế và sự nâng cao địa vị quốc
tế của Trung Quốc"[38];
đồng thời, “giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương đã
làm rối loạn việc triển khai chiến lược của Mỹ nhằm uy hiếp Trung Quốc từ ba
chiến tuyến Nam Triều Tiên, Đài Loan, Đông Dương, đảm bảo an ninh cho Trung Quốc
ở biên thùy phía Nam, Trung Quốc có thể tập trung sức người, sức của vào phát
triển kinh tế"[39].
Như vậy, nội dung bản Hiệp định Genève đảm bảo lợi ích cho mọi bên tham
gia, đặc biệt là Trung Quốc, song mang lại lợi ích hạn chế đối với người chiến
thắng. Wilfred Burchett nhận xét: “Thực tế Việt Nam là người
chiến thắng không thể tranh cãi, nhưng đã “rộng lượng” nhân nhượng nhiều nhất ở
Genève”[40].
Thật vậy, Việt Nam tuy thắng lớn trên chiến trường, song do thiếu
kinh nghiệm đàm phán, do thực lực chưa mạnh, nên “chỉ có được một nửa nước Việt Nam
trên bản đồ thế giới”[41].
Người chiến thắng thực sự là Chu Ân Lai, “ông rời Genève gần như với tất cả mọi
thứ đã được tiên liệu và dự đoán trước”[42]. Thượng
nghị sĩ Mỹ William Knowland bình luận
về kết quả Hội nghị Genève
như sau: “Cả hai nhà ngoại giao Liên Xô, Trung Quốc Molotov
và Chu Ân Lai đã sẵn sàng hy sinh chiến thắng quân sự của Hồ Chí Minh phục vụ
lợi ích quốc gia của mình”[43]. Đó cũng chính là bài học lớn đầu tiên về mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia, dân tộc
và phe phái - ý thức hệ mà Việt Nam DCCH rút ra từ sự ứng xử của những đồng
minh/nước lớn trên con đường hội nhập đầy truân chuyên.
[1]Dẫn
theo Đào Huy Ngọc: Lịch sử quan hệ quốc tế
(1870 -1964), Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 1996, tr.119.
[2] Michael J. Friedman: Chiến tranh lạnh- Một cuộc kiểm tra đối với sức mạnh và sự thử thách đối
với các ý tưởng của Hoa Kỳ, Tạp
chí điện tử, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 4-2006.
[3] Chen Jian: The Sino-Soviet alliance and China's entry into the Korean War, Cold War
International History Project Bulletin, 6-7, p. 12.
[4] Chen Jian: China's Road to the Korean War: The Making
of the Sino-American Confrontation, New York, Columbia University Press,
1994, pp.74-75.
[5] Tư liệu nghiên cứu về
quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam 1949-1979, Cục Nghiên cứu Bộ Quốc phòng, bản đánh máy, t.1, tr. 29
[6] Directive of the Strategy of Struggle Against the U.S. and Jiang, 28
November 1945, United Front Department and the Central Archives of the CCP,
ed., Zhonggong zhongyang
jiefang zhanzheng shiqi tongyi zhanxian wenjian xuanbian, Beijing:
Dang'an chubanshe, 1988, p. 32.
[7] Dương Khuê Tùng: Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa, tập 2, Nxb. Nhân dân Giang Tây, 2008, bản dịch Quốc
Thanh.
[8] Dương Khuê Tùng: Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa, Tlđd.
[9] Zhang
Xiaoming: China, the Soviet Union, and the Korean War: From an
Abortive Air War Plan to a Wartime Relationship, Journal of Conflict Studies, vol 22, N01,
2002, p.81.
[10] Trong cải cách ruộng
đất, khoảng 1.000.000-4.50.000 người bị giết, tầng lớp tinh hoa nông thôn hầu
như bị diệt vong. Trong các chiến dịch đấu tranh chống “phản cách mạng”, khoảng
700.000 đến 2.000.000 người bị giết (Nguồn:
Yang Kuisong: Reconsidering the Campaign to Suppress Counterrevolutionaries, The
China Quarterly, 193, March 2008).
[11] Tạ Ích Hiển
(chủ biên): Lịch sử ngoại giao Trung Quốc đương đại (1949-2001), Bản dịch của
Tổng cục 2, lưu tại Tổng cục 2, tr.55.
[12] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Beijing: History of CPC Press, 2005, p.20.
[13] Tạ Ích Hiển
(chủ biên): Lịch sử ngoại giao Trung Quốc đương đại (1949-2001), Sđd, tr.55.
[14] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Ibid, p.24.
[15] Preliminary Opinions on the Assessment
of and Preparation for the Geneva Conference,' Prepared by the PRC Ministry of
Foreign Affairs (drafted by PRC Premier and Foreign Minister Zhou Enlai) [Excerpt]" March 02, 1954, History and Public
Policy Program Digital Archive, PRC FMA 206-Y0054, CWIHP.
[16] Preliminary Opinions on the Assessment
of and Preparation for the Geneva Conference,' Prepared by the PRC Ministry of
Foreign Affairs (drafted by PRC Premier and Foreign Minister Zhou Enlai) [Excerpt]" March 02, 1954, Ibid.
[17] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Ibid, p.26.
[18] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Ibid, p.27
[19]Hồ Chí Minh: Thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngày
22-12-1953, tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
[20] Archimedes L. A.
Patti: Tại sao Việt Nam, Nxb. Đà Nẵng, 2001, tr.826.
[21] Archimedes L. A. Patti: Tại sao Việt Nam, Sđd,
tr.826.
[22] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Ibid, p.28.
[23] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Ibid, p.36.
[24] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva
Conference, Ibid, p.38.
[25] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Ibid, p.26.
[26] Đoàn đại biểu được chia làm sáu tổ: tổ về vấn đề Triều
Tiên, tổ về vấn đề Việt Nam, vấn đề tổng hợp, tổ tin tức tuyên truyền, tổ thư
ký và tổ giao tiếp hành chính, trong đó có thêm năm phiên dịch tiếng Nga, bốn
phiên dịch tiếng Anh, bốn phiên dịch tiếng Pháp, ngoài ra còn có đầu
bếp, lái xe, tổng cộng là 185 người, cộng thêm 29 nhà báo.
[27] Nghệ sĩ kinh kịch
lừng danh Trung Quốc.
[28] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Ibid, p.42.
[29] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Ibid, p.50.
[30] Qiang Zhai: China and Vietnam Wars, 1950-1975, Ibid, p.50.
[31]Allen Kempton: The People’s Republic of China and Vietnam: A Complex Relationship, Essay Prize in History,
2012, p.5.
[32] Dương Khuê Tùng: Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa, Tlđd.
[33] Bộ Ngoại giao: Hội
nghị Giơnevơ và quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh - lấy Trung Quốc, Việt Nam
và Trung Quốc làm ví dụ, Hội thảo nội bộ ngành "Hiệp định Giơnevơ: 50
năm nhìn lại", ngày 27-7-2004, tài liệu không phổ biến, lưu tại Bộ Ngoại
giao.
[34] An analysis of Vietnam's relations with China from the beginning of the
Cold War to the Present, Wilson Quarterly 19 (1), p.35.
[36] Zhai Qiang: China
and the Geneva Conference of 1954, The China Quarterly, No. 129 (Mar, 1992), p.122.
[37] Francois Joyaux: Trung Quốc và
việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Sđd, tr.255.
[38] Bộ Ngoại giao: Hội
nghị Giơnevơ và quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh - lấy Trung Quốc, Việt Nam
và Trung Quốc làm ví dụ, Tlđd, tr.4.
[39] Bộ Ngoại giao: Hội
nghị Giơnevơ và quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh - lấy Trung Quốc, Việt Nam
và Trung Quốc làm ví dụ, Tlđd, tr.3.
[40] Burchett, George and Shimmin, Nick:
Memoires of A Rebel Journalist: The
Autobiography of Wilfred Burchett, Ibid, p.199.
[41]Christopher E. Goscha: Courting
Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of Vietnam into the
Internationalist Communist Movement (1945–1950), Journal of Vietnamese Studies, Vol I, N0 1-2, (February, August), 2006.
[42] Chen Jian: China and the First Indo-China
War, 1950-54, The China Quarterly, No. 133 (Mar, 1993), p.110.
[43] George C. Herring: America's Longest War: The United States and
Vietnam 1950-1975 (New York: John Wiley & Sons, 1979, p.40.
Bài viết rất có ý nghĩa cho cho các nhà chính trị, ngoại giao, học giả trong việc nhìn nhận đối tác, đối tượng và đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Trả lờiXóaBài viết cung cấp thêm nhiều tư liệu để các nhà nghiên cứu có cách nhìn nhận, đánh giá khách quan về vấn đề này, rất ý nghĩa cho nghiên cứu hoạch định đường lối đối ngoại hiện nay của Đảng
Trả lờiXóa