Chủ Nhật, 12 tháng 1, 2014

MẬU THÂN 1968: DIỄN BIẾN TOÀN CUỘC


PGS,TS. Hồ Khang
Các hoạt động nghi binh chiến lược, đặc biệt chiến dịch Khe Sanh mở màn trước Tết Mậu Thân 1968 mười ngày, đã làm cho Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn (M.A.C.V) và giới lãnh đạo Oa-sinh-tơn bị lạc hướng. Trong khi phía Mỹ dồn tâm trí và lực lượng ra hướng Đường 9 - Khe Sanh, nhận định Khe Sanh là một Điện Biên Phủ trong ý đồ chiến lược của Bộ Thống soái Việt Nam, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đồng loạt nổ ra trên khắp chiến trường miền Nam mà hướng chính là nhằm vào đô thị - trung tâm quân sự, chính trị và kinh tế của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968 (tức đêm giao thừa theo lịch miền Nam), quân và dân các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung và Tây Nguyên đã đồng loạt tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ và hàng loạt căn cứ, kho tàng, sở chỉ huy, sân bay, bến cảng... của đối phương, mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên khắp chiến trường miền Nam[1].
23 giờ ngày 29 tháng 1: Nha Trang.
0 giờ ngày 30 tháng 1: Tuy Hòa.
0 giờ 30 phút ngày 30 tháng 1: Tân Cảnh.
0 giờ 45 phút ngày 30 tháng 1: Buôn Ma Thuột.
0 giờ 55 phút ngày 30 tháng 1: Plây Cu.
1 giờ ngày 30 tháng 1: Đà Nẵng, Hội An.
1 giờ 15 phút ngày 30 tháng 1: Quy Nhơn, Công Tum...
Tại Tây Nguyên, vào lúc 0 giờ 30 phút ngày 30 tháng 1 năm 1968, một tiểu đoàn chủ lực thuộc Trung đoàn 174 bộ đội Tây Nguyên đã nổ súng đánh vào Tân Cảnh, thị trấn nhỏ nằm dưới chân một ngọn đồi cách Đắc Tô 3km và cách thị xã Công Tum chừng 40km về phía Bắc1- nơi đặt Sở Chỉ huy trung đoàn 42 quân đội Sài Gòn. Ít phút sau đó, các tiểu đoàn 401, 406, 300 bộ đội địa phương tỉnh Gia Lai, Công Tum, Đắc Lắc phối hợp với lực lượng đặc công của Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên đã tiến công sân bay Cù Hanh, A-ri-a và các thị xã Buôn Ma Thuột, Plây Cu, Công Tum. Ngay từ đầu, Quân giải phóng đã đánh trúng một số mục tiêu đầu não của chính quyền Sài Gòn như khu hành chính, Dinh Tỉnh trưởng, Ty cảnh sát, Tỉnh đoàn bảo an, Đài phát thanh... cùng các căn cứ, sở chỉ huy quân sự ở bên ngoài và bên trong thị xã.
Tại các tỉnh đồng bằng ven biển Khu 5, lực lượng vũ trang Quân giải phóng tiến công vào một loạt các thành phố, thị xã - như Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang và hơn 40 thị trấn, quận lỵ cùng hàng trăm mục tiêu quân sự, chính trị trên địa bàn chiến lược trọng yếu này.
Còn ở thành phố Đà Nẵng - một căn cứ quân sự liên hợp lớn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, một trong ba trọng điểm của cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân thì, mặc dù đã được chuẩn bị từ trước khá lâu nhưng ngay từ đầu, cuộc tiến công và nổi dậy đã gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính của khó khăn này là do công tác nắm tình hình đối phương không chắc, chuẩn bị mọi mặt chưa chu đáo, tổ chức hành quân chiếm lĩnh bàn đạp xuất phát tiến công chưa tốt nên đã bị chặn đánh quyết liệt ngay trên đường hành quân.
Theo kế hoạch, đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968, lực lượng pháo binh, đặc công, bộ binh, biệt động sẽ đồng loạt đánh phá các sân bay, trận địa pháo, kho tàng; chiếm một số mục tiêu chủ yếu trong thành phố để hỗ trợ cho quần chúng từ bên ngoài kéo vào phối hợp với quần chúng bên trong nổi dậy giành chính quyền. Ở Đà Nẵng, phương thức vạch ra để giành thắng lợi là dùng sự nổi dậy của quần chúng giành chính quyền là chính.
Thế nhưng, đêm 29 tháng 1, lực lượng luồn sâu đánh chiếm Sở Chỉ huy quân đoàn 1 và Quân đội Sài Gòn trên đường hành quân đã bị chặn lại bên bờ sông Cẩm Lệ. Chỉ có một bộ phận nhỏ gồm 57 người đi trước vượt được qua sông, tiến công vào mục tiêu và chiến đấu đến người cuối cùng trước một lực lượng đối phương đông hơn gấp bội, có xe tăng, pháo binh và máy bay yểm trợ. Trong khi đó Sư đoàn 2 bộ binh chủ lực Quân khu 5 có nhiệm vụ đánh ra phía Nam Đà Nẵng do nhận được lệnh hoãn ngày nổ súng tiến công đã lùi về phía sau. Đối phương tập trung lực lượng và dùng pháo binh, máy bay đánh phá, ngăn chặn mọi ngả đường dẫn vào Đà Nẵng. 40.000 quần chúng các huyện xung quanh được tổ chức thành đại đội, tiểu đoàn đã bị chặn lại trên đường vào thành phố. Hơn 100 cán bộ đã bị bắt, bị hy sinh. Bên trong thành phố, phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân không thực hiện nổi.
24 giờ sau khi quân và dân các tỉnh ven biển miền Trung và Tây Nguyên nổ súng mở màn, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt nổ ra ở khắp các tỉnh và thành phố lớn miền Nam. Bộ binh, đặc công, pháo binh Quân giải phóng ngay từ những phút đầu đã đánh mạnh, đánh trúng các mục tiêu trọng yếu ở Sài Gòn, Huế, Quảng Trị, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt, Tây Ninh, Bến Tre, Biên Hòa, Mỹ Tho, Cần Thơ, Trà Vinh, Châu Đốc, Vĩnh Long, Cà Mau, Sóc Trăng, Rạch Giá...
Tại Mặt trận Huế, thành phố lớn thứ ba miền Nam với dân số 15 vạn người - tính đến thời điểm cuối năm 1967, là nơi tập trung các cơ quan đầu não chỉ đạo chiến tranh của Mỹ và Quân đội Sài Gòn ở khu vực Vùng 1 chiến thuật, nơi đối phương tập trung một bộ phận khá lớn binh lực và phương tiện chiến tranh[2], vào lúc 2 giờ 33 phút ngày 31 tháng 1 năm 1968, pháo binh đồng loạt dội đạn xuống các mục tiêu của đối phương ở khu Tam Giác, khu Phan Sào Nam, Phú Bài, Động Tòa, Đông Ba, mở đầu cho cuộc tiến công đánh chiếm thành phố - Cố đô này. Ngay sau đó, lực lượng tiến công trên 2 cánh đồng loạt đánh vào 39 khu vực mục tiêu trong và ngoài thành phố.
cánh Bắc, phía tả ngạn sông Hương, khi pháo binh sau một thời gian bắn cấp tập, chuẩn bị chuyển làn thì Trung đoàn 6 bộ binh cùng một số tiểu đoàn bộ binh, đặc công, pháo cối và các đội biệt động thành... chia làm nhiều mũi tiến đánh khu Mang Cá - nơi đặt sở chỉ huy của sư đoàn 1 bộ binh quân Sài Gòn, khu An Hòa, cửa Chánh Tây, sân bay Tây Lộc, cửa Hữu, cửa Thượng Tứ, khu Đông Ba, khu Cột Cờ, khu Đại Nội, cầu Bạch Hổ, khu vực Kim Long, khu Gia Hội, Kẻ Vạn, Văn Thánh... hầu hết các mục tiêu quy định đều đã bị Quân giải phóng đánh chiếm, chỉ trừ khu Mang Cá và sân bay Tây Lộc.
Cùng lúc với cánh Bắc, ở cánh Nam, phía hữu ngạn sông Hương, Trung đoàn 9 bộ binh được tăng cường 2 tiểu đoàn của Thành đội Huế, 2 tiểu đoàn đặc công và một số đơn vị binh chủng, biệt động, dân quân du kích 2 huyện vùng ven Hương Thủy, Phú Vang... tiến công căn cứ trung đoàn 7 thiết giáp Quân đội Sài Gòn ở Tam Thai, đại đội Nam Triều Tiên ở khu Tàu Lăng, khu công binh Nam Giao, sở chỉ huy lực lượng cảnh sát dã chiến, khu kho Rèn, Ngã Sáu, Đài phát thanh... Lực lượng cánh Nam còn đánh mạnh vào các đơn vị ở Phước Quả, ty Sắc Tộc, chiếm Tòa tỉnh trưởng, giải phóng 2.000 cán bộ, chiến sĩ bị giam cầm ở lao Thừa Phủ; chiếm khu vực nhà ga, xưởng quân cụ, tiến công khách sạn Mỹ là khách sạn Hương Giang và khách sạn Thuận Hóa. Như vậy, hầu như tất cả các cơ quan đầu não chính quyền và Quân đội Sài Gòn tỉnh Thừa Thiên và các cơ quan đại diện chính quyền Trung ương đặt tại Huế đều bị Quân giải phóng đánh chiếm.
Rạng sáng hôm sau, ngày 1 tháng 2 năm 1968, tuy tiếng súng vẫn rộ lên ở nhiều nơi nhưng phần lớn thành phố Huế đã nằm trong tay Quân giải phóng. Trong sương sớm, lá cờ nửa đỏ nửa xanh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phấp phới trên cột cờ Thành Nội. Sáng ngày 3 tháng 2, quần chúng bắt đầu nổi dậy lùng diệt, truy quét ác ôn và tàn binh quân đội Sài Gòn, phá bỏ bộ máy kìm kẹp, thiết lập chính quyền cách mạng ở cơ sở, xây dựng công sự, trận địa phòng thủ, cứu chữa thương binh, vận động binh lính và nhân viên chính quyền cũ ra trình diện chính quyền cách mạng[3]... Các tổ chức đoàn thể mới như "Hội binh sĩ yêu nước", "Đoàn nghĩa binh cảnh sát"... được thành lập, tập hợp hàng trăm hội viên, đoàn viên. Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình thành phố Huế (gồm các nhân sĩ, trí thức, sinh viên, chức sắc tôn giáo yêu nước) ra đời, phát lời kêu gọi các tầng lớp nhân dân đoàn kết đứng lên chống Mỹ và tay sai[4].
Tại các huyện vùng ven như Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, lực lượng vũ trang được sự hỗ trợ của quần chúng nhân dân đánh chiếm các mục tiêu vòng ngoài, bức rút đồn bốt, gọi hàng và làm tan rã lực lượng dân vệ, truy quét ác ôn và tay sai ngoan cố, mở rộng vùng giải phóng xung quanh Huế.
Trong khi đó, trên các hướng phối hợp, các đơn vị vũ trang Trị - Thiên nổ súng tiến công, hỗ trợ cho quần chúng nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều vùng nông thôn.
hướng Phú Lộc, Quân giải phóng đánh chiếm quận lỵ, phá sập cầu Hai, cầu Nước Ngọt và một số cầu cống khác, tiếp tục chặn cắt đường số 1 - đoạn từ Đà Nẵng ra Huế trong nhiều ngày, thực hiện đúng kế hoạch của Quân khu giao cho. Đồng thời, trên hướng này, Quân giải phóng bao vây các đồn An Bằng, Thừa Lưu, giải phóng khu vực xung yếu ven biển, khu vực phía Nam cầu Hai và khu vực Truồi.
Ở hướng Phong Điền, Quảng Điền, lực lượng vũ trang Mặt trận 6 cắt đứt tuyến đường Phú Ốc - Sịa, bao vây quận lỵ Sịa của huyện Quảng Điền, buộc đối phương rút bỏ khu vực vùng đồng bào công giáo Thanh Lương. Hơn 3.000 quần chúng huyện Hương Điền bao vây uy hiếp quận lỵ Phò Trạch.
Quảng Trị, mặc dù đối phương bố trí lực lượng phòng thủ khá dày đặc[5] nhưng đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1, Quân giải phóng đánh mạnh vào phía Đông Nam thị xã, tiêu diệt 1 tiểu đoàn quân Sài Gòn ở khu vực Tri Bưu, đánh tiêu hao nặng 1 tiểu đoàn khác đến phản kích suốt ngày 31 tháng 1. Cùng đêm, một bộ phận Quân giải phóng bí mật vượt dòng Thạch Hãn, đột nhập vào bên trong đánh chiếm ty Cảnh sát, dinh Tỉnh trưởng, nhà máy Đèn. Tuy nhiên, cả 2 mũi tiến công của Quân giải phóng đều bị đối phương chặn đánh quyết liệt, không tiếp tục phát triển được. Trong khi đó, các mũi đánh vào La Vang Thượng, La Vang Trung, Cầu Lớn cũng không dứt điểm. Vì thế, đêm 31 tháng 1, toàn bộ lực lượng Quân giải phóng phải rút ra bên ngoài thị xã.
Tại Quân khu 6, chiều ngày 8 tháng 1 năm 1968, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu mới được truyền đạt chủ trương Tổng công kích - tổng khởi nghĩa và đến chiều ngày 29 tháng 1 mới nhận được lệnh nổ súng tiến công vào giao thừa Tết Mậu Thân. Mọi mặt chuẩn bị phải gấp rút hoàn thành trong một khoảng thời gian quá ngắn. Dù vậy, với quyết tâm cao và niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi, 0 giờ ngày 1 tháng 2 năm 1968, lực lượng vũ trang Khu 6 đã nổ súng tiến công thị xã Phan Thiết - tỉnh lỵ ven bờ biển miền Trung, có số dân 50.000 người, nổi tiếng với nghề làm nước mắm truyền thống. Do đánh chậm hơn các nơi khác, nên ở đây đối phương đã kịp đề phòng. Nhưng phía tiến công vẫn đột kích sâu, đánh chiếm phần lớn tòa Hành chính tỉnh và một số cơ quan tiểu khu, làm chủ khu vực Nhà ga và xung quanh đồn Trịnh Tường; phát động nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ hầu hết các phường ở tả ngạn dòng sông Ca Ty chia đôi thị xã.
Tại Đà Lạt, lực lượng vũ trang Khu 6 đã đánh mạnh vào Bộ Chỉ huy tiểu khu, Tỉnh đoàn bảo an, dinh Tỉnh trưởng, Nhà lao, tòa Thị chính, ty Cảnh sát, khu vực Nhà ga, trường Chiến tranh chính trị, sân bay Cam Ly... Sáng ngày 1 tháng 2, Quân giải phóng đã làm chủ nhiều khu vực trong thị xã. Dựa vào đó, Quân giải phóng tiếp tục phát triển tiến công và đánh phản kích trong hơn 10 ngày.
Sài Gòn - Gia Định là trọng điểm thứ nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Tại thành phố rộng lớn này, để bảo vệ trung tâm chính trị, quân sự và kinh tế của chế độ Sài Gòn; bảo vệ các cơ quan chỉ huy đầu não của bộ máy chiến tranh Mỹ và quân đội Sài Gòn, đối phương bố trí nhiều loại lực lượng và phương tiện chiến tranh, hình thành nhiều tuyến phòng thủ vững chắc.
Đến cuối năm 1967, ở vòng ngoài, trên hướng Tây Bắc, ngoài căn cứ Đồng Dù với sư đoàn 25 và 2 lữ đoàn quân Mỹ, đối phương còn bố trí sư đoàn bộ binh 25 quân đội Sài Gòn, nhiều tiểu đoàn biệt động quân và một số đại đội bảo an. Trên hướng Bắc, có căn cứ Lai Khê của sư đoàn 1 bộ binh Mỹ cùng sư đoàn 5 Quân đội Sài Gòn và hàng chục tiểu đoàn biệt động quân. Khi cần thiết, hướng này còn được lực lượng của trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ ở Bàu Trai, Bến Cát hỗ trợ.
Ở hướng Đông và Đông Bắc, ngoài quân dù Mỹ ở Biên Hòa, đối phương còn bố trí các đơn vị quân Nam Triều Tiên (đóng ở Dĩ An), quân Úc (đóng ở Long Bình) và sư đoàn 18 Quân đội Sài Gòn (đóng ở Xuân Lộc). Bảo vệ hướng Nam có lực lượng dù, lính thủy đánh bộ và các đơn vị hải quân và quân đội Sài Gòn. Ngoài ra, một bộ phận thuộc sư đoàn bộ binh 9 quân Mỹ hoạt động ở phía Tiền Giang và phía bắc sông Hậu cũng là lực lượng sẵn sàng tiến về bảo vệ phía Nam Sài Gòn.
Vòng trong, ngoài lực lượng bảo vệ trị an của biệt khu Thủ đô và các đơn vị cảnh sát dã chiến, đối phương còn bố trí một số tiểu đoàn, đại đội quân Mỹ và Quân đội Sài Gòn ở sân bay Tân Sơn Nhất, ở các trại: Đống Đa, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung...
Ngoài ra, trên các ngả đường dẫn vào thành phố, ở các vùng ven, tại các khu phố, mạng lưới tình báo, gián điệp, mật vụ cùng hệ thống bốt canh, trạm kiểm soát của đối phương giăng khắp mọi nơi...
Để tiến công và nổi dậy tại trung tâm đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trong phương án đề ra, Trung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền chủ trương sử dụng toàn bộ lực lượng của Đoàn F.100[6] và biệt động các cánh, các ngành bất ngờ đánh chiếm 9 mục tiêu để trong một thời gian ngắn, làm tê liệt sự đề kháng của đối phương; chốt chặn giữ vững các "đầu cầu" để chờ các tiểu đoàn mũi nhọn và lực lượng thanh niên sinh viên đến tiếp ứng, đặng mở rộng phạm vi kiểm soát, phát động nhân dân vùng dậy khởi nghĩa. Trong khi đó, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực chặn đánh đối phươngvòng ngoài, nhằm kìm chân đối phương, không để kéo vào cứu nguy trong nội đô; đồng thời sẵn sàng kéo vào thành phố khi được lệnh.
Tại đây, cũng như nhiều nơi trên chiến trường, do đánh chậm, trước giờ Quân giải phóng nổ súng tiến công, đối phương đã tăng cường đề phòng. Vì thế, trên các ngã ba, ngã tư đường phố, đã bố trí các xe Jép có gắn đại liên phòng vệ và các đội tuần tra cơ động trên đường. Các đơn vị chiến đấu Mỹ được đặt trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao nhất... Mặc dù vậy, 2 giờ sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn - Gia Định vẫn bắt đầu.
Ngay từ phút nổ súng đầu tiên, trong thành phố, các đại đội biệt động trang bị gọn nhẹ đã lập tức đồng loạt và bất ngờ đánh vào các mục tiêu quy định: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân quân đội Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh, tòa Đại sứ Mỹ, Đại sứ quán Phi-líp-pin[7]. Tuy nhiên, các mục tiêu khác, như: Tổng nha cảnh sát, Biệt khu Thủ đô, Khám Chí Hòa..., Quân giải phóng không đánh được - vì các đội biệt động đã bị ngăn chặn trên đường hành quân. Lực lượng vũ trang của các ban, ngành, đoàn thể như các đội tự vệ, biệt động của Thành đoàn, Thanh niên, Công đoàn, Hoa vận, Phụ nữ... hoạt động rộng khắp, đánh các bốt cảnh sát, truy diệt ác ôn ở phường Bến Đá, phường Bàn Cờ... Ở những nơi và trên những hướng có lực lượng vũ trang Quân giải phóng tiến công, khí thế cách mạng của quần chúng dấy lên khá mạnh mẽ, sôi nổi. Nhân dân đã giúp bộ đội chiến đấu dưới nhiều hình thức như dẫn đường, tiếp tế lương thực, tải thương, cứu chữa và nuôi giấu thương binh, treo cờ Mặt trận, dựng chướng ngại vật trên đường phố cản phản kích, tham gia truy bắt ác ôn... Nhiều nơi, nhân dân trực tiếp phối hợp chiến đấu với bộ đội, vận động con em gia nhập Quân giải phóng. Trong khi đó, lực lượng dân quân du kích đẩy mạnh các hoạt động võ trang tuyên truyền ở vùng ven, phối hợp với bộ đội địa phương tiến công vào nhiều mục tiêu trong các thị trấn, quận lỵ, chi khu... Đồng thời với hoạt động của biệt động, các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu cũng mở các cuộc tiến công vào những mục tiêu quy định. Trên hướng Đông và Đông Bắc thành phố, các đơn vị thuộc Phân khu 4 và Phân khu 5 đánh đối phương trên đường 13, khu vực Bình Triệu, xa lộ Biên Hòa, ngã tư Hàng Xanh... Ở hướng Tây Nam, các tiểu đoàn mũi nhọn Phân khu 2 phối hợp với Trung đoàn bộ binh 16 và lực lượng đặc công tiến công sân bay Tân Sơn Nhất, chiếm hãng dệt VINATEXCO, trụ bám đánh phản kích ở khu vực cầu Tham Lương. Tiểu đoàn mũi nhọn mang tên "Tiểu đoàn 6 Bình Tân" trên đường tiến vào mục tiêu Biệt khu Thủ đô đã tiêu diệt trại cảnh sát dã chiến cạnh trường đua Phú Thọ, đánh đối phương ở ngã tư đường Nguyễn Văn Thoại, làm chủ trường Nữ quân nhân, kiểm soát một khu vực rộng lớn từ chùa Từ Nghiêm đến chùa Ấn Quang - có 4 đại lộ bao quanh là đại lộ Nguyễn Tri Phương, đại lộ Trần Quốc Toản, đại lộ Lý Thái Tổ, đại lộ Minh Mạng[8]. Ở hướng Nam, các tiểu đoàn mũi nhọn Phân khu 3 xuất phát từ các bàn đạp vùng ven Long Cang, Long Định, Hiệp Phước, Phước Lại, rạch Bà Tàng tiến vào nội thành, đánh chiếm khu vực Phú Định, Lò Gốm, chợ Thiếc, cầu Nhị Thiên Đường, phường Bến Đá, phường Hùng Thái, phường Đa Phước... Ở hướng Bắc và Tây Bắc, lực lượng vũ trang Phân khu 1 đánh chiếm Bộ Chỉ huy thiết giáp Quân đội Sài Gòn ở trại Phù Đổng, chiếm một phần Bộ Chỉ huy pháo binh Quân đội Sài Gòn ở trại Cổ Loa, căn cứ tiểu đoàn pháo binh ở trại Nỏ Thần, căn cứ 80 quân cụ, căn cứ 60 truyền tin. Tiếp đó, tiểu đoàn 1 bộ binh thuộc Trung đoàn "Quyết thắng" phát triển tiến công về hướng ngã năm Bình Hòa, ngã ba Cây Thị. Trong lúc đó, tiểu đoàn mũi nhọn Gò - Môn cùng một bộ phận đặc công trên đường thọc vào Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, bị lạc hướng, phải tìm đường theo sự chỉ dẫn của nhân dân mới đến được mục tiêu tác chiến. Vì vậy, sáng mồng hai Tết (tức 7 giờ ngày 31 tháng 1)[9], Tiểu đoàn mới nổ súng đánh chiếm cổng số 4 Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn. Cùng thời gian trên, một bộ phận Trung đoàn 1 thuộc Sư đoàn 9 chủ lực Miền tiến công trung tâm huấn luyện Quang Trung, đánh đối phương ở vùng Tân Thới Trung, Thới Trung Thôn, Trung Mỹ Tây, Xuân Thới Thượng.
Xung quanh Sài Gòn- Gia Định, một loạt các căn cứ quân sự, trụ sở của quân đội và chính quyền Sài Gòn ở Biên Hòa, Bình Dương, Hậu Nghĩa, Long An... cũng bị tiến công.
Xa hơn về phía Nam Sài Gòn là vùng đồng bằng châu thổ mênh mông. Đây là vựa lúa lớn của miền Nam Việt Nam, một địa bàn chiến lược trọng yếu đối với cả hai bên. Trước Tết, cơ quan phụ trách "bình định" và các cố vấn Mỹ đã từng tuyên bố lạc quan về tình hình an ninh tại các tỉnh đồng bằng đông dân cư này. Thế nhưng, đêm 31 tháng 1 rạng sáng ngày 1 tháng 2 và những ngày tiếp sau, lực lượng vũ trang Quân giải phóng (hầu hết là lực lượng vũ trang địa phương) đã tiến công vào 13 trong số 14 thị xã và nhiều quận lỵ, thị trấn, căn cứ quân sự và hệ thống đồn bốt của chính quyền, Quân đội Sài Gòn trên toàn vùng. Cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã làm cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn càng thêm bối rối trong khi chưa kịp định thần trước việc Huế, Sài Gòn và một loạt các đô thị bị tiến công; Khe Sanh - Đường 9 đang bị bao vây, uy hiếp...
Đòn tiến công bất ngờ, mãnh liệt vào đô thị đã buộc Mỹ và Quân đội Sài Gòn phải co lực lượng từ các nơi về cứu nguy, bỏ ngỏ vùng nông thôn. Nắm vững thời cơ này, lực lượng vũ trang tại chỗ đã hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều nơi, giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn.
Bị tiến công rộng khắp ở thành thị và nông thôn, thoạt đầu, đối phương lúng túng chống đỡ. Nhưng ngay sau đó, đối phương nhanh chóng lấy lại bình bĩnh, điều động lực lượng, tổ chức phản kích. Cuộc giao tranh nhằm giành quyền kiểm soát các khu vực mục tiêu trọng yếu diễn ra quyết liệt ở các đô thị trên phạm vi toàn Miền. Trong cuộc chiến đấu đó, phía Mỹ và Quân đội Sài Gòn chiếm ưu thế về quân số, vũ khí, hỏa lực. Để đánh bật các đơn vị Quân giải phóng ra khỏi các mục tiêu đang chiếm giữ, lực lượng phản kích, ngoài số quân áp đảo, đã đem vào sử dụng cả các loại vũ khí hạng nặng như xe tăng, đại bác, chất độc hóa học và không quân. Bom đạn Mỹ đã san bằng nhiều khu phố, phá hoại nhiều nhà cửa, giết hại nhiều dân thường ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Huế; ở các thị xã Mỹ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Phan Thiết... và một loạt các thị trấn, quận lỵ khác[10]. Vì thế, từ đầu cuộc phản công của đối phương, cuộc chiến đấu trong đô thị đã diễn ra rất ác liệt do đối phương chiếm ưu thế về quân số và hỏa lực. Cho dù bộ đội giải phóng đã chiến đấu anh dũng, giành giật quyết liệt với đối phương từng ngôi nhà, từng góc phố; gây nhiều tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến tranh,... nhưng, phía Quân giải phóng cũng bị tiêu hao nặng. Cuộc chiến tuy ác liệt, bom đạn rền trời, nhưng đòn công kích quân sự của Quân giải phóng chưa đủ mạnh để làm chỗ dựa chắc chắn cho phong trào nổi dậy của quần chúng, nên không diễn ra khởi nghĩa ở các đô thị như lường tính ban đầu. Trước tình hình đó, sau khi chiếm giữ các mục tiêu một thời gian, đánh lui nhiều đợt phản kích, lực lượng chiến đấu trong nhiều đô thị đã phải rút ra vùng ven củng cố và bổ sung quân số, giữ bàn đạp tiến công.
Riêng mặt trận Sài Gòn - Gia Định, cuộc chiến đấu trên đường phố, ở vùng ven kéo dài nhiều ngày và rất quyết liệt. Ngay từ sáng sớm ngày 31 tháng 1, đối phương điều tiểu đoàn dù số 1 Quân đội Sài Gòn giải tỏa Đài phát thanh, tiểu đoàn dù số 8 giải tỏa Bộ Tổng tham mưu, tiểu đoàn dù số 6 giải tỏa sân bay Tân Sơn Nhất. Liên đoàn biệt động 5 gồm 4 tiểu đoàn trấn đóng trên vòng cung Thủ Đức - Nhà Bè - Bình Chánh - Hóc Môn được điều gấp vào nội thành Sài Gòn. Trong ngày 31 tháng 1, thêm 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Quân đội Sài Gòn được không vận từ Vũng Tàu và Cai Lậy (Định Tường) về Sài Gòn. Những ngày tiếp theo, thêm nhiều đơn vị Mỹ và Quân đội Sài Gòn tiếp tục được điều tới mặt trận Sài Gòn - Gia Định[11].
Với lực lượng tăng viện nhanh và ngày càng nhiều, phía Mỹ và Quân đội Sài Gòn liên tiếp mở nhiều cuộc phản kích giải tỏa các khu vực nằm trong tay Quân giải phóng. Trong các ngày từ 31 tháng 1 đến 4 tháng 2, nhiều trận đánh ác liệt tiếp diễn trên đường phố Sài Gòn.
Tại khu vực Dinh Độc Lập, 15 chiến sĩ biệt động[12] do Trương Hoàng Thanh chỉ huy, sau khi dùng thuốc nổ phá tung cánh cửa sắt, đã vấp phải hỏa lực bắn chặn của lực lượng canh giữ, không phát triển tiến công được vào bên trong dinh, phải bám bậc thềm phía ngoài chiến đấu. Sáng ra, đối phương tăng viện, có cả xe bọc thép yểm trợ. Tiểu đoàn mũi nhọn và lực lượng sinh viên tiếp ứng không tới được, các chiến sĩ biệt động buộc phải lùi ra phía ngoài, triển khai đội hình chiến đấu trên đường Nguyễn Du. Cuộc chiến đấu không cân sức, tám chiến sĩ bị hy sinh, số còn lại bị rơi vào tay đối phương.
Tại khu vực Bộ Tư lệnh Hải quân, Quân giải phóng gặp khó khăn ngay từ đầu. 16 chiến sĩ biệt động do Nguyễn Văn Lém (Bảy Lớp) chỉ huy chiến đấu quyết liệt; 14 bị hy sinh và 2 bị bắt ngay trong đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 giữa vòng vây của đối phương. Bảy Lớp bị bắt và bị sát hại ngay sau đó.
khu vực Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trong các ngày 31 tháng 1 và 1 tháng 2. Cụm biệt động 679 gồm 27 tay súng; sau khi đánh chiếm cổng số 5 và cổng Phi Long, vì lực lượng ít, đối phương đông nên không thể lọt vào bên trong. Trời sáng, đối phương điều thêm lực lượng và xe bọc thép phản kích. Dựa vào các tòa nhà trên đường Trương Quốc Dung, các lực lượng biệt động đánh trả, loại khỏi vòng chiến hàng trăm quân đối phương, bắn cháy 2 xe bọc thép, nhưng phía Quân giải phóng cũng bị tổn thất và hết đạn. 2 giờ chiều ngày 31 tháng 1, lực lượng còn lại buộc phải rút lui. Trong khi đó, ở cổng số 4 Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Tiểu đoàn 2 Gò - Môn đến chậm, mãi đến 7 giờ sáng ngày 31 tháng 1 mới nổ súng tiến công. Do đánh chậm, yếu tố bất ngờ không còn. Dù vậy, một bộ phận lực lượng Tiểu đoàn 2 Gò - Môn vẫn còn lọt được vào phía trong chiến trường Sinh ngữ quân đội Sài Gòn. Trong ngày 31 tháng 3, đối phương tăng viện tới khu vực này 3 tiểu đoàn quân dù và lính thủy đánh bộ, mở nhiều đợt phản kích. Trực thăng vũ trang của đối phương bắn phá ồ ạt xuống những khu vực tình nghi là Quân giải phóng chiếm giữ, làm hư hại nặng trường Sinh ngữ, trường Tổng quản trị, Trung tâm Huấn cụ và các khu vực kế cận. Sáng ngày 1 tháng 2, lực lượng còn lại của Tiểu đoàn 2 Gò - Môn rút khỏi khu vực cổng số 4 Bộ tổng tham mưu. Trên đường rút lui, Tiểu đoàn bị thương vong nặng; khi về tới căn cứ, từ 500 chiến sĩ, Tiểu đoàn chỉ còn lại 28 người!
Tại khu vực Đài phát thanh Sài Gòn, 12 biệt động và 2 phục vụ viên sau 3 phút chiến đấu đã chiếm đài, loại khỏi vòng chiến đấu trung đội bảo vệ của đối phương. Tuy nhiên, do thiếu nhân viên kỹ thuật và vì đối phương có kế hoạch dự phòng nên Quân giải phóng không sử dụng được Đài phát thanh như trù liệu. Ngay sau khi bị mất Đài phát thanh, đối phương tổ chức phản kích nhanh và quyết liệt, sử dụng cả trực thăng vũ trang và xe tăng yểm trợ cho quân phản kích. Cuộc chiến không cân sức. Lực lượng biệt động bị thương vong toàn đội; chỉ còn lại 2 nhân viên kỹ thuật lánh được khỏi vòng vây.
Tại tòa Đại sứ Mỹ, 17 chiến sĩ biệt động do đội trưởng Ngô Thành Vân (Ba Đen) chỉ huy, sau khi lọt vào phía trong đã nhanh chóng đánh chiếm từ tầng 1 đến tầng 3. Phân đội cảnh vệ Mỹ chống trả quyết liệt nhưng không đẩy lùi được cuộc tấn công. 7 giờ sáng ngày 31 tháng 1, một trung đội quân cảnh Mỹ mới lọt được vào cổng chính. Kịch chiến xảy ra trong khu vườn Sứ quán. đối phương dùng máy bay lên thẳng định đổ quân lên nóc tòa Sứ quán nhưng bị hỏa lực mặt đất bắn lên dữ dội. Phía dưới, các chiến sĩ biệt động chiến đấu đến người cuối cùng. 9 giờ ngày 31 tháng 1, Quân đội Sài Gòn chiếm lại toàn bộ khu vực Sứ quán giữa ngổn ngang gạch vụn và xác người, thương vong 124 lính. Đội trưởng Ngô Thành Vân bị bắt.
Tại nhiều nơi khác, các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu cũng đã chiến đấu quyết liệt trước lực lượng đối phương phản kích có quân số áp đảo, lại được trọng pháo, xe thiết giáp, máy bay ném bom chiến thuật và trực thăng vũ trang chi viện hỏa lực ồ ạt. Chiến sự diễn ra ác liệt tại các khu vực: ngã năm Bình Hòa, ngã ba Cây Thị (hướng Phân khu 1); tại khu vực hãng dệt VINATEXCO, cầu Tham Lương, cầu Tre phía Tây sân bay Tân Sơn Nhất và các khu vực đường Trần Quốc Toản, chợ Thiếc, trường đua Phú Thọ, trường Nữ quân nhân, đường Nguyễn Văn Thoại, chùa Ấn Quang, đường Nguyễn Tri Phương, đường Triệu Đà, đường Lê Đại Hành, cư xá Lữ Gia, đường Nguyễn Kim... (hướng Phân khu 2); khu vực nhà Hội đồng, cầu số 3, kho gạo Bình Đông, cầu Nhị Thiên Đường, phường Bến Đá, phường Hùng Thái, khu vực Phú Định, Lò Gốm, hãng rượu Bình Tây, đường Hậu Giang, cầu Tân Quy... (hướng Phân khu 3); khu vực Hàng Xanh, Cầu Sơn, Phú Cường, Cù lao Bình Qưới... (Phân khu 4 và Phân khu 5). Tại các khu vực này, Quân giải phóng đã bám trụ từng cao ốc, từng hẻm phố, từng ngả đường, từng ngôi nhà, từng mô đất... quần lộn với đối phương, đánh bật nhiều đợt phản kích. Ở một số nơi, lực lượng Quân giải phóng đã đưa súng đại liên đặt trên tầng thượng các tòa cao ốc để đón đánh máy bay và khống chế khu vực xung quanh các tòa cao ốc đó...
Trong khi chiến sự diễn ra quyết liệt tại đô thành Sài Gòn, Bộ chỉ huy Miền đã nhanh chóng và kịp thời sử dụng một số đơn vị bộ đội chủ lực Miền, mở gấp một loạt trận đánh ở vòng ngoài để hỗ trợ.
Sư đoàn 5 đánh vào sân bay Biên Hòa, khu kho Long Bình, sở chỉ huy dã chiến số 2 của quân Mỹ, Bộ Tư lệnh quân đoàn 3 quân đội Sài Gòn. Tiếp đó, một bộ phận lực lượng sư đoàn tổ chức chốt chặn ở khu vực ngã ba Tam Hiệp thuộc thị xã Biên Hòa.
Sư đoàn 7 tiến công Sở Chỉ huy sư đoàn 5 Quân đội Sài Gòn tại Bến Cát, tập kích các cụm quân thuộc sư đoàn 1 bộ binh "Anh cả đỏ" và căn cứ của trung đoàn thiết giáp số 11 Mỹ ở khu vực Phú Giáo.
Sư đoàn 9 giao chiến với lữ đoàn 1, sư đoàn 25 bộ binh "Tia chớp nhiệt đới" ở Củ Chi...
Các trận đánh trên đây đã có tác dụng ghìm chân một bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ và Quân đội Sài Gòn, không thể tăng viện cho Sài Gòn. Tuy nhiên, do chủ trương bảo toàn lực lượng, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực Miền vẫn không tiến vào nội đô, vì thế, lực lượng chiến đấu trong thành phố trở nên đơn độc, bị bao vây bốn mặt, bị hao tổn nặng nề: 80% chiến sĩ biệt động bị hy sinh và bị bắt, 50% lực lượng các tiểu đoàn mũi nhọn bị thương vong; một số tiểu đoàn khi rút ra chỉ còn lại 1/5, 1/10 quân số[13]. Cơ sở nội thành bị bộc lộ và tổn thất nhiều... Trước tình hình đó, lực lượng chiến đấu trong thành phố được lệnh rút ra ngoại ô.
Từ giữa tháng 2 năm 1968, vùng ven đô trở thành chiến trường nóng bỏng, nơi diễn ra các cuộc giao tranh quyết liệt giữa Quân giải phóng và đối phương nhằm chiếm giữ các khu vực bàn đạp tiến công vào nội đô Sài Gòn.
Từ đây, trên toàn chiến trường, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân sau những ngày bùng lên mạnh mẽ, đã giảm dần. Riêng mặt trận phía Bắc, chiến sự vẫn diễn ra ác liệt tại Đường 9 - Khe Sanh và Huế.
Tại Đường 9 - Khe Sanh đêm 6 và ngày 7 tháng 2, Sư đoàn 304 chủ lực miền Bắc nổ súng đánh chiếm làng Vây - cứ điểm mạnh trong hệ thống phòng thủ khu vực Đường 9 của đối phương, mở rộng bàn đạp nhằm đến ngày 8 tháng 2 tổ chức vây hãm căn cứ Tà Cơn. Đến ngày này, pháo binh bắn khống chế sân bay trong căn cứ này của đối phương, song, máy bay lên thẳng Mỹ vẫn hạ cánh được. Vì thế, từ ngày 15 tháng 2, Quân giải phóng chuyển sang chiến thuật vây lấn, toan áp dần vào cứ điểm của đối phương.
 Ở phía tây sân bay Tà Cơn, mũi vây lấn đã xuyên được vào giữa các lớp hàng rào (cách chiến hào đối phương một tầm súng bộ binh). Các mục tiêu bên trong căn cứ đối phương đã bắt đầu bị uy hiếp bằng hỏa lực bắn thẳng và chịu sự khống chế của pháo binh. Tất cả những chiến thuật áp dụng xung quanh căn cứ Tà Cơn vào tháng 2 năm 1968 dường như là sự áp dụng lại chiến thuật mà Quân đội nhân dân Việt Nam đã dùng ở Điện Biên Phủ năm xưa...
Tuy nhiên, do tình hình nóng bỏng ở Mặt trận Huế và do áp lực của Quân giải phóng ở Đường 9 - Khe Sanh chưa đủ mạnh nên Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ (M.A.C.V) chưa thể tăng viện lớn cho khu vực Đường 9 - Khe Sanh. Thay vì bằng việc sử dụng bộ binh, đối phương đã phải dùng hỏa lực pháo binh, máy bay - kể cả B.52, đánh phá dữ dội khu vực bao quanh căn cứ Tà Cơn suốt ngày đêm nhằm làm giảm áp lực vây hãm.
Tại Huế, sau những ngày đầu tiến công và nổi dậy giành thắng lợi vang dội, lực lượng Quân giải phóng ở cả hai cánh chuyển sang đánh phản kích. Cánh Bắc - phía tả ngạn sông Hương, do không chiếm được đồn Mang Cá và khu vực sân bay Tây Lộc, không chia cắt và ngăn chặn được đối phươnghướng Bao Vinh nên đối phương có điều kiện tăng cường lực lượng vào Mang Cá và Tây Lộc, dựa vào đó để  phản kích vào khu vực thành nội và nhiều nơi khác. Ở cánh Nam, đối phương phản kích đánh bật lực lượng Quân giải phóng ra khỏi nhiều mục tiêu, buộc Quân giải phóng phải lùi ra tuyến ven sông An Cựu, Vân Dương và vùng Long Thọ. Tại đây, các đơn vị cánh Nam lại cố gắng tổ chức các trận tập kích sâu vào một số mục tiêu trong thành phố. Như vậy, trên thực tế, từ ngày 5 tháng 2, lực lượng cánh Nam đã rút khỏi nội thành, ra trụ bám ở vùng ven.
Từ ngày 7 tháng 2, 14 tiểu đoàn chủ lực Mỹ và Quân đội Sài Gòn với sự chi viện hỏa lực ồ ạt của không quân, pháo binh và xe tăng mở các đợt phản kích nhằm chiếm lại khu vực phía bắc thành phố - phía tả ngạn sông Hương. Tiếp đó, thêm nhiều đơn vị chủ lực được tung vào mặt trận này; đưa tổng số có mặt tại Huế lên 23 tiểu đoàn chủ lực Mỹ và Quân đội Sài Gòn (trong đó có 15 tiểu đoàn chủ lực Mỹ). Ngoài ra, sư đoàn 1 kỵ binh không vận Mỹ chiếm đóng phía bắc và tây bắc Huế nhằm ngăn chặn sự tăng viện của Quân giải phóng. Không quân Mỹ dội bom vào các mục tiêu do quân Quân giải phóng chiếm giữ, tàn phá nhiều nhà cửa và công trình kiến trúc của cố đô Huế.
Để phối hợp cùng toàn Miền, Quân giải phóng tăng cường lực lượng vào khu vực Thành Nội, kiên quyết giữ vững những mục tiêu đang chiếm giữ. Ở vùng ven, Quân giải phóng mở các trận tiến công đối phương ở Nam Giao, Long Thọ, Tam Thai, cầu Bến Ngự, cầu Lò Rèn, Đập Đá, Vĩ Dạ, An Cựu... nhằm buộc đối phương phải phân tán lực lượng đối phó, hỗ trợ cho lực lượng chiến đấu trong nội thành.
Từ ngày 9 tháng 2, giao tranh nổ ra tại nhiều nơi trong thành phố. Những trận đánh ác liệt tiếp diễn ở khu vực Phú Văn Lâu, cửa Đông Ba, đồn Mang Cá, đài phát thanh Huế... Tại Đông Ba, cửa Hữu, cửa An Hòa, cửa Thượng Tứ..., Quân giải phóng và đối phương giành giật nhau từng căn phố, từng khu vườn, từng khúc đường, từng bãi trống... đối phương bị thiệt hại nặng nhưng Quân giải phóng cũng bị hao tổn nhiều.
Phối hợp chiến đấu với chủ lực Quân giải phóng, du kích và bộ đội địa phương đẩy mạnh các hoạt động tiến công đối phương rộng khắp. Đội tự vệ khu phố Gia Hội được thành lập ngay trong những ngày Tổng tiến công và nổi dậy, đã hăng hái, dũng cảm chiến đấu, bắn cháy một số tàu chiến trên sông Hương. Ở khu vực chợ Cống - Vân Dương, tiểu đội du kích gồm 11 cô gái Hương Thủy trụ bám địa bàn, phối hợp cùng các chiến sĩ Tiểu đoàn 10 (Đoàn 5) đánh phản kích, diệt hơn trăm Mỹ và bắn cháy 5 xe tăng...[14].
Ngày 21 tháng 2, sau nhiều lần phản kích, đối phương dồn Quân giải phóng về phía An Hòa. Ở khu vực Thành Nội, đối phương chiếm thêm cửa Thượng Tứ, dồn Quân giải phóng về khu vực phía Tây Thành. Trước tình hình đó, để bảo toàn lực lượng, tránh bị bao vây, ngày 22 tháng 2, Khu ủy Trị - Thiên và Chỉ huy mặt trận Huế quyết định rút toàn bộ lực lượng tác chiến trong thành phố ra ngoài[15]. Từ ngày 23 tháng 2 đến ngày 25 tháng 2, các đơn vị chủ lực, đặc công, biệt động, bộ đội địa phương, dân quân du kích, thương bệnh binh đã chủ động, bí mật lần lượt rút ra vùng giải phóng Phú Vang và vùng căn cứ miền núi Trị - Thiên.
Trên toàn Miền, đêm ngày 17 rạng ngày 18 tháng 2, quân và dân miền Nam đồng loạt tiến công bằng bộ binh, pháo binh vào 47 thành phố, thị xã, quận lỵ, thị trấn và nhiều căn cứ quân sự. Ở các tỉnh Định Tường, Kiến Hòa, Châu Đốc, Phan Thiết... bộ binh đánh sâu vào một số mục tiêu trong thị xã. Ở Sài Gòn, mặc dù lực lượng quân sự đã tràn ngập trong nội đô và đánh phá quyết liệt ở vùng ven nhưng lực lượng vũ trang Quân giải phóng vẫn thực hiện được một loạt trận tấn công nhằm vào các mục tiêu trong nội thành như: Trụ sở Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ (M.A.C.V), Bộ Tư lệnh quân dù Quân đội Sài Gòn, Tổng nha cảnh sát, Nha cảnh sát đô thành, Biệt khu Thủ đô, Trung tâm ra đa Phú Lâm, Nhà máy Đèn chợ Quán, khu cư xá Mỹ... Liên tiếp trong các ngày 17, 21, 24 tháng 2, pháo binh Quân giải phóng đã nã đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất, khu kho xăng An Nhơn - Gò Vấp... 
Ở vùng ngoại vi, Quân giải phóng tấn công Nhà Đèn Thủ Đức, khu hậu cần Rạch Chiếc, cầu Bình Lợi, khu huấn luyện quân sự Trung Hòa, trung tâm huấn luyện Quang Trung, căn cứ Đồng Dù, chi khu quân sự Bình Chánh, thị trấn Hóc Môn; chặn đánh hành quân càn quét ở Vĩnh Lộc, Tân Thới Trung, Hóc Môn, Bà Điểm...
Tiếp đó, ngày 25 tháng 2, bộ binh và pháo binh tiến công tỉnh lỵ Long Xuyên và một số thị trấn, quận lỵ trên toàn miền Nam; tăng cường áp lực phía Tây và Tây Bắc Sài Gòn - vùng Phú Thọ Hòa và Hóc Môn. Đêm 5 tháng 3, nhiều quận lỵ, thị trấn và một số thị xã lại bị tấn công bằng pháo cối và bộ binh. Tuy nhiên, từ tháng 3 năm 1968 trở đi, áp lực của Quân giải phóng xung quanh các đô thị giảm dần. Trên thực tế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã kết thúc.
Sau "Tết Mậu Thân", lực lượng tiến công vào các đô thị rút ra vùng ven hoặc rút về hậu cứ để củng cố. Trong lúc đó, quân Mỹ và Quân đội Sài Gòn dốc sức mở các cuộc hành quân quy mô lớn hòng đẩy lực lượng Quân giải phóng ra xa các vùng ven đô thị, các căn cứ quân sự và hậu cần, các đầu mối giao thông huyết mạch, giải tỏa áp lực xung quanh các khu vực quan trọng này[16]. Cùng với các cuộc hành quân giải tỏa đó, Mỹ và Quân đội Sài Gòn đã liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét nhằm triệt phá cơ sở cách mạng ở nội đô và vùng ven đô. Trong các cuộc hành quân đó, đối phương đã sử dụng ồ ạt bom đạn triệt hạ nhiều làng mạc nhằm lập vành đai trắng xung quanh các đô thị và các căn cứ[17]; thẳng tay tàn sát nhiều người dân vô tội hòng gây nỗi khiếp sợ trong nhân dân miền Nam Việt Nam[18]. Ngoài ra, Mỹ - chính quyền Sài Gòn còn tăng cường các biện pháp khủng bố, kìm kẹp bằng nhiều thủ đoạn như: bắt giam những nhân vật đối lập - những người đã từng ra tranh cử tổng thống với Thiệu, Kỳ hồi đầu năm ngoái; thành lập "Mặt trận cứu nguy dân tộc" do Trần Văn Đôn cầm đầu; đưa "phòng vệ dân sự" lên thành "quốc sách", xem đó là một trong những biện pháp chủ chốt để chống lại mọi cuộc tiến công của Quân giải phóng và mọi cuộc nổi dậy của nhân dân; thanh lọc các cơ quan hành chính; phát "thư tố cáo" cho từng nhà, từng người để khuyến khích việc giám sát lẫn nhau trong nhân dân, khuyến khích nhân dân "tố cáo Việt Cộng" hoặc tố cáo binh lính bỏ trốn cho chính quyền Sài Gòn...
Thông qua những biện pháp quân sự trên chiến trường miền Nam kết hợp với việc tập trung không quân, hải quân đánh phá dữ dội vùng đất "cán xoong" từ bắc vĩ tuyến 17 đến nam vĩ tuyến 20 nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho1cách mạng miền Nam, Mỹ hy vọng sẽ trấn an được dư luận trong nội bộ nước Mỹ và giành thế mạnh trên bàn Hội nghị Pa-ri.
Về phía lực lượng giải phóng, sau "Tết Mậu Thân", nhằm "đẩy địch vào thế thất bại liên tiếp, ngày càng suy yếu, tan rã, không sao gượng dậy được"[19], làm cho đối phương "thất bại trên chiến trường, thất bại ở các thành thị lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ"[20], theo đề nghị của lãnh đạo, chỉ huy một số chiến trường[21], Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương mở tiếp các đợt tiến công và nổi dậy mặc dù lực lượng bị tổn thất chưa kịp bổ sung và trong điều kiện đối phương đã tăng cường bảo vệ xung quanh đô thị. Tuy nhiên, khác với đợt Tết Mậu Thân - đợt mà các lực lượng vũ trang được lệnh "đánh theo yêu cầu"; trong hai đợt tháng 5 và tháng 8 năm 1968, lực lượng vũ trang ở các chiến trường được lệnh "đánh theo khả năng hiện có".
Thực hiện chủ trương đó, lúc vào 0 giờ 30 phút ngày 5 tháng 5 năm 1968, quân và dân miền Nam trên khắp chiến trường đã đồng loạt tiến công bằng bộ binh và pháo binh vào 31 thành phố, thị xã, 58 thị trấn, quận lỵ; đánh trúng 10 Bộ Tư lệnh quân đoàn và sư đoàn, 30 sân bay, 20 căn cứ xuất phát hành quân và trung tâm huấn luyện quân sự của đối phương. Trong đợt này, chiến sự diễn ra quyết liệt ở trọng điểm Sài Gòn - Gia Định và khu vực Đường 9 - Khe Sanh.
Sài Gòn - Gia Định, trước cuộc tiến công, lực lượng quân sự Mỹ và Quân đội Sài Gòn dồn về đây lên tới 200.000 lính (60 tiểu đoàn). Bên cạnh đó, đối phương tập trung hàng nghìn xe tăng, xe bọc thép; hàng trăm máy bay lên thẳng vũ trang đêm ngày quần đảo, lùng sục trên địa bàn vùng ven... Hơn nữa, trước ngày mở màn đợt 2, Phó chính ủy Phân khu 1 T.V.Đ đã đầu hàng, chạy sang phía bên kia chiến tuyến. Dù vậy, Thường vụ Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền vẫn giữ vững quyết tâm ban đầu, không thay đổi mục tiêu tiến công và ngày, giờ nổ súng như đã định. Mở đầu cuộc tiến công, pháo binh bắn phá mãnh liệt sân bay Tân Sơn Nhất, Sứ quán, các khu nhà ở của Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, tân cảng Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân, tổng nha Cảnh sát, Biệt khu Thủ đô; đặc công và biệt động tập kích đài vô tuyến truyền hình, cầu Phan Thanh Giản; chủ lực Miền và các tiểu đoàn mũi nhọn cùng bộ đội địa phương đánh sâu vào trung tâm thành phố, chiếm giữ ngã tư Bảy Hiền, trường đua Phú Thọ, quận lỵ Vò Gấp, cầu Chữ Y, bốt cảnh sát Quận 8, cầu Bình Lợi, cầu Bình Hòa... 
Phối hợp với các lực lượng chiến đấu trong nội thành, ở ngoại vi Sài Gòn, bộ đội giải phóng khống chế nhiều ngả đường dẫn vào thành phố, pháo kích vào một số kho tàng, sân bay, tiến công các đơn vị Mỹ và Quân đội Sài Gòn, đánh vào các thị trấn và quận lỵ. Mỹ, Quân đội Sài Gòn chống trả quyết liệt, tổ chức các cuộc phản kích quy mô lớn. Mặc dù chiếm ưu thế về quân số và hỏa lực yểm trợ nhưng Mỹ, Quân đội Sài Gòn không dễ dàng đánh bật được các lực lượng tiến công ra khỏi những mục tiêu đang bị chiếm giữ. Chiến sự tại khu vực trường đua Phú Thọ, cầu Tre, cầu Chữ Y, Bến Phạm Thế Hiển, đường Minh Phụng diễn ra đặc biệt ác liệt trong một số ngày.Tại mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, Quân giải phóng tăng thêm lực lượng, đánh bại các cuộc hành quân giải tỏa của Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ và 4 tiểu đoàn Quân đội Sài Gòn, xiết chặt vòng vây xung quanh căn cứ Tà Cơn, dồn đối phương lâm vào tình thế có thể bị tiêu diệt hoàn toàn...
Trước tình hình đó, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải rút bỏ Khe Sanh nhằm bảo toàn lực lượng (tháng 6 năm 1968) - sau khi đã bị hao tổn 17.000 quân và hàng trăm máy bay khiến cho tuyến phòng thủ DDường 9 của đối phương đã bị đập vỡ ở một khâu trọng yếu. Đó là một thất bại nặng nề về quân sự và chính trị của Mỹ, chứng tỏ quân Mỹ không thể đứng vững được ở tuyến phòng thủ vòng ngoài trước đòn tiến công của chủ lực miền Bắc Việt Nam[22].
Sau đợt tiến công tháng 5[23], quân và dân miền Nam trên chiến trường đã mở tiếp đợt tiến công tháng 8. Trong đợt này, bộ đội giải phóng sử dụng pháo binh là chủ yếu đánh vào một mục tiêu ở 27 thành phố, thị xã và 100 thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự.
Đợt tiến công tháng 5 và tháng 8 năm 1968 bồi tiếp đòn nặng vào ý chí xâm lược của Mỹ, gây những tổn thất nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh, buộc Mỹ phải cử đại diện tới Pa-ri trong tư thế bị suy yếu hơn trước.
Về phía Quân giải phóng, do tiến công và nổi dậy liên tục, kéo dài, trên quy mô rộng lớn, lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị trong năm 1968 đã bị tổn thất nặng nề: 111.306 người đã hy sinh và bị thương, hàng vạn quần chúng đã ngã xuống. Riêng ở Nam Bộ, "thương vong của ta trong năm này cao hơn số thương vong của các năm từ 1961 đến 1970 cộng lại"[24].
 Mặt khác, trong khi dồn sức tấn công vào đô thị hết đợt này đến đợt khác, đã bỏ hở vùng nông thôn đồng bằng. Lợi dụng tình hình này, Mỹ và Quân đội Sài Gòn tung quân đẩy bật các đơn vị chủ lực ra xa các đô thị và căn cứ quân sự; đồng thời, tiến hành "bình định cấp tốc", ra sức càn quét và tranh chấp quyết liệt những vùng vừa bị mất, đặc biệt là vùng ven Sài Gòn, đồng bằng sông Cửu Long, duyên hải Khu 5 và Trị - Thiên. Từ tháng 11 năm 1968, đối phương mở các "chiến dịch Phượng Hoàng"[25] nhằm "tiêu diệt chính qưyền bí mật của Việt cộng" mà họ tin chắc là "đã có những Ủy ban Cách mạng hoạt động trong 17 tỉnh, 5 thành phố và 2.541 xã"[26] trên toàn miền Nam. Với nỗ lực mới, lại biết lợi dụng kịp thời sự sơ hở ở nông thôn đồng bằng, từ giữa năm 1968 trở đi, Quân đội Sài Gòn dần dần líp lại được hầu hết những khu vực đã mất trong các đợt Tổng tiến công và nổi dậy tháng 2, tháng 5 năm 1968; khôi phục các tuyến giao thông quan trọng. Từ đây kéo dài tới các năm 1969, 1970, thế trận chiến tranh nhân dân trên cả ba vùng chiến lược bị sa sút, cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn và thử thách nặng nề...

*   *  *  *  *
Tình hình trên đây khiến cho từ nhiều năm qua, đã có không ít bài viết đề cập tranh luận khá gay gắt xung quanh sự kiện "Tết Mậu Thân" và việc mở các đợt tiến công tháng 5 và tháng 8 năm 1968. Nhiều người khi nhìn lại cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã không khỏi bị tình cảm chi phối nặng nề. Đây chính là vấn đề nổi cộm trong các hội nghị khoa học, trên các trang viết về "Tết Mậu Thân", không ít người dè dặt khi tìm hiểu về đề tài này. Một số khác khi xem xét "Tết Mậu Thân" đã nhận thấy sự kiện lịch sử đó đã "không tạo được một bước phát triển đi lên của chiến tranh cách mạng miền Nam, không thay đổi được cục diện chiến trường có lợi; mà làm cho cục diện xấu hơn năm 1968. Cũng có thể nói rằng nó đã tạo nên một bước tạm thời đi xuống của cục diện chiến trường miền Nam"[27]. Cũng đã có tác giả cho rằng: trong và sau Tết Mậu Thân, "lực lượng kháng chiến của ta lâm vào tình trạng hết sức khó khăn. Cách mạng miền Nam đi vào thời kỳ đen tối"[28]. Sau hơn 20 năm nhìn lại, Lê Đức Thọ đã đặt ra câu hỏi về sự cần thiết của việc mở cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân và cho rằng cái giá mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải trả cho thắng lợi "Tết Mậu Thân" là "đắt quá!”[29].
Xét về mặt khoa học, những nhìn nhận và sự tranh luận trên đây là cần thiết, góp phần làm rõ hơn về một sự kiện lịch sử "quan trọng nhất và phức tạp nhất" của cuộc chiến tranh kéo dài, diễn ra trên quy mô rộng lớn và với cường độ vô cùng khốc liệt, và không vì thế mà làm giảm đi tầm giá trị đã đi vào lịch sử như một CỘt mỐc lỚn, ghi dấu bưỚc ngOẶT lỚN của sự kiện này trên chặng đường dài 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trên cả hai miền Nam Bắc vì nền độc lập, tự do và sự vẹn toàn, thống nhất đất nước.



[1] Việc các địa phương Quân khu 5 nổ súng tiến công sớm hơn một ngày so với Quân khu Trị - Thiên, Quân khu 6, Quân khu 7... đã được một số cuốn sách xuất bản ở Trung ương và địa phương đề cập. Cuốn Nam Trung Bộ kháng chiến 1945-1975 ghi chú rằng: "Cuối năm 1967, vì lý do khoa học, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố ngày mồng một Tết âm lịch Mậu Thân chậm hơn lịch cũ một ngày (tức ngày 30 tháng 1 năm 1968), trong lúc đó, chính quyền Sài Gòn vẫn giữ như lịch cũ (tức ngày 31 tháng 1 năm 1968)". Vì giờ nổ súng trên toàn chiến trường được quy định đúng vào đêm giao thừa nên hiển nhiên, việc đổi lịch trên đây dẫn đến tình trạng giữa các chiến trường sẽ đánh lệch ngày giờ như dự tính ban đầu. "Phát hiện tình hình này, Bộ Tổng tham mưu lệnh cho các địa phương nổ súng trước lùi lại (một ngày) cho thống nhất (sách Quân khu 5 - 30 năm chiến tranh giải phóng). Cũng theo cuốn sách này, "trong hội nghị tổng kết cuộc Tiến công và nổi dậy Xuân 1968, từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 3 năm 1986 tại Thành phố Hồ Chí Minh, các lãnh đạo ở Cục Tác chiến khẳng định: lệnh viết rõ là giao thừa (miền Nam). Nhưng vì một số địa phương không nghiên cứu kỹ nên làm sai". Thế nhưng, "Lệnh" này được gửi đi từ bao giờ thì sách này không ghi rõ. Trong khi đó, cuốn Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập II cho biết: "Chiều ngày 29 tháng 1 năm 1968, Quân khu 5 nhận được điện hoãn cuộc tiến công sang đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1". Nếu vậy, bức điện gửi đi đã là quá muộn nếu như đặt trong điều kiện chiến trường ác liệt lúc đó. Cho nên, trên thực tế, lệnh hoãn ngày giờ nổ súng tiến công trên đây, quả thực cũng "chỉ kịp báo cho Sư đoàn 2, sư đoàn 3, Trung đoàn 10 và hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi", còn lại, "các tỉnh Quảng Đà, Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa không nhận được (lệnh) nên vẫn nổ súng theo kế hoạch ban đầu là đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968" (sách: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập II). Chúng tôi không có chuyên môn về lịch Việt Nam mà ở đó, phép tính âm lịch, tháng đủ, tháng thiếu, tháng nhuận... là một chuyên môn sâu, nên không thể giải thích được "lý do khoa học" của việc "công bố ngày mồng một Tết âm lịch Mậu Thân năm ấy chậm hơn lịch cũ một ngày". Sau này, đã có những ý kiến cho rằng, việc dùng lịch âm mà không dùng lịch dương để quy định ngày giờ nổ súng rất đáng được đem ra phân tích. Dưới góc độ nghiên cứu một sự kiện lịch sử đã diễn ra hơn 30 năm qua, chúng tôi nghĩ rằng, việc quy định âm lịch và việc "đổi lịch" mà ngay sau đó, một số địa phương ở chiến trường Quân khu 5 đánh sớm hơn một ngày so với toàn Miền, tự bản thân nó, đã là một Hành đỘng nghi binh tầm chiến lược, thu hút tâm trí và lực lượng đối phương vào chiến trường không phải là trọng điểm trong kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968... Vả chăng, lực lượng tiến công trong ngày đầu ở các địa phương Quân khu 5, thực ra cũng mới chỉ chủ yếu là bộ đội địa phương và dân quân du kích...
 [2] Toàn bộ Mặt trận Huế, cho đến thời điểm nổ ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, đối phương có khoảng 25.000 đến 30.000 quân, gồm 13 tiểu đoàn bộ binh (8 tiểu đoàn quân Sài Gòn, 5 tiểu đoàn quân Mỹ), 2 trung đoàn thiết giáp, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn biệt kích, 2 tiểu đoàn công binh, 2 tiểu đoàn vận tải, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ, 2 tiểu đoàn hải thuyền, 12 đại đội bảo an, 3 tiểu đoàn cảnh sát, 96 trung đội dân vệ, 18 đoàn bình định, 100 máy bay vận tải, một số đơn vị trực thuộc của Sư đoàn 1 bộ binh quân đội Sài Gòn và Sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ... Toàn bộ lực lượng này được bố trí trên hai khu vực bắc và nam thành phố Huế; mỗi khu vực, hệ thống phòng thủ được tổ chức thành vòng trong và vòng ngoài kiên cố, hỗ trợ cho nhau.
[3] Đã có hơn 10.000 sĩ quan, binh lính, cảnh sát, nhân viên chính quyền cũ ra trình diện chính quyền cách mạng.
[4] Liên quan tới việc thành lập Mặt trận thứ hai, sách "Cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng" ghi nhận: "Tại Thủ đô, Mặt trận "Liên minh dân tộc Dân chủ và Hòa bình" chưa kịp xuất hiện nhưng thành phần của Mặt trận này, sau đó cũng được tiết lộ do Luật sư Trịnh Đình Thảo, ông Lâm Văn Tết và Thượng tọa Thích Đôn Hậu cầm đầu. Thành phần này thuộc trong tổ chức Trung ương. Còn tại Huế, một tổ chức loại này đã thật sự ra mắt hoạt động do Giáo sư Lê Văn Hảo cầm đầu và đã gây ra nhiều xáo trộn chính trị tại thành phố này" (Sđd, tr.59).
[5] Trước ngày Quân giải phóng nổ súng tiến công, đối phương tăng tiếp tới khu vực Quảng Trị 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ và 6 tiểu đoàn quân đội Sài Gòn nhằm củng cố khả năng phòng thủ thị xã quan trọng này.
[6] Tháng 6 năm 1965, Khu ủy và Quân khu ủy Sài Gòn - Gia Định quyết định thành lập Đoàn biệt động F.100 với nhiệm vụ bí mật chuẩn bị để có thể, khi được lệnh, tập kích cùng một lúc các cơ quan đầu não trung ương của đối phương tại Sài Gòn - Gia Định.
[7] Lực lượng đánh vào tòa Đại sứ Phi-líp-pin là lực lượng thuộc Ban An ninh Thành ủy Khu Sài Gòn - Gia Định và tự vệ của Thành đoàn. Mục tiêu của trận đánh là bắt Nguyễn Văn Thiệu nhưng vì cơ sở nội thành báo sai địa điểm; cho rằng tòa nhà trên đường Trương Minh Giảng là nhà riêng của Nguyễn Văn Thiệu nhưng thực ra, đó là tòa Đại sứ Phi-líp-pin.
[8] Sách Cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu thân... của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Việt Nam cộng hòa ghi: "Người ta thấy địch (Quân giải phóng -TG), tấn công vào khu vực này là một khu vực đông dân cư lao động và là nơi có chùa Ấn Quang từng xuất phát các cuộc xuống đường chống Chính phủ, nhằm để nhen nhóm lên một cuộc nổi dậy của nhân dân phát xuất từ đây lan tràn vào đô thị" (Sđd, tr.54).
[9] Một số cuốn lịch sử địa phương như Miền Đông Nam Bộ kháng chiến - Nxb Quân đội nhân dân, H, 1993, Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân - Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, ghi rằng: Mãi ngày 1 tháng 2, Tiểu đoàn 2 Gò Môn mới tới cổng số 4 Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn. Thế nhưng, một số văn bản khác như tài liệu nội bộ của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hướng tiến công Sài Gòn- Gia Định (1968) lại ghi sáng 31 tháng 1, tiểu đoàn này đã có mặt và nổ súng đánh vào cổng 4 Bộ Tổng tham mưu. Đối chiếu với tài liệu của Ban Quân sử thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Sài Gòn, chúng tôi cho rằng: sáng 31 tháng 1, Tiểu đoàn 2 Gò - Môn đã đến được cổng 4 Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Sài Gòn là chính xác.
[10] Việc phía Mỹ cố ý sử dụng ồ ạt hỏa lực trong các đô thị miền Nam dịp Tết Mậu thân..., đã được nhiều phóng viên báo chí và vô tuyến truyền hình lúc đó phản ánh. Ngày 7 tháng 2 năm 1968, Hãng thông tấn AP đã phát bài của nhà báo Mỹ Pi-tơ Ác-nét. Bài báo có đoạn viết: "Đến mức nào thì anh nã súng đại bác bắn phá và gọi máy bay phản lực ném bom các khu phố trong thị xã anh? Đến lúc nào thì việc gây thương vong cho dân thường trở thành một việc mà anh không cần bận tâm đến làm gì? Người ta đã trả lời cho mấy câu hỏi đó ngay trong mấy giờ đầu của các trận đánh giành thị xã Bến Tre trước đây là một thị xã thanh bình có 35.000 dân trên bờ sông Cửu Long. Một thiếu tá Mỹ nói: Cần phải phá hủy thị xã để bảo vệ nó".
Hãng tin Roi-tơ ngày 10 tháng 2 năm 1968 kể lại lời một sĩ quan cao cấp Mỹ: "Anh có thể kiểm tra sự thiệt hại theo tỉ lệ trực tiếp với hỏa lực. Như vậy tức là phía Mỹ đúng là đã gây ra cảnh tàn phá nhiều hơn. Phía Mỹ có khả năng đánh sập cả một khu phố bằng máy bay để tìm bắt một vài Việt cộng lẩn trốn. Ngược lại, Việt cộng đánh lén vào thành thị cho nên họ cố gắng càng ít gây ra tiếng động càng hay".
Cần nói thêm rằng, việc Mỹ sử dụng không hạn chế hỏa lực dịp Tết Mậu Thân dù có giúp cho Mỹ giành lại quyền kiểm soát các đô thị từ tay đối phương đi chăng nữa thì bản thân hành động đó lại là một trong số những bằng chứng biểu hiện sự thất bại của Mỹ về mặt chính trị trong dịp Tết Mậu Thân nói riêng, trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam nói chung.
[11] Hãng thông tấn AFP ngày 3 tháng 2 năm 1968 đưa tin ở Sài Gòn lúc đó có chừng 3.500 Quân giải phóng, còn phía Mỹ và quân đội Sài Gòn có tới 500.000 quân gồm 15 tiểu đoàn Mỹ, 18 tiểu đoàn Quân đội Sài Gòn, 34.000 cảnh sát dã chiến.
[12] Tác giả Hồ Sĩ Thành, trong cuốn Biệt động - những chiến công bất tử (Nxb Trẻ, 2002), ghi rằng, đánh vào dinh Độc Lập gồm 17 người của Đội biệt động 5.
[13] Dẫn theo Miền Đông Nam Bộ kháng chiến (1945-1975), T2, Nxb Quân đội nhân dân, H, 1997, tr.339, 340.
[14] Tiểu đội du kích 11 cô gái Hương Thủy còn được biết đến với cái tên Tiểu đội 11 cô gái sông Hương. Hồ Chí Minh đã có thơ:
Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường
Khôn ngoan bày trận khắp trong phường
Bác khen các cháu dân quân gái
Đánh giặc Huê Kỳ phải nát xương.
Liệt sĩ Phạm Thị Liên - người phụ trách tiểu đội sau này đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
[15] Thượng tướng Trần Văn Quang - nguyên Tư lệnh Quân khu Trị Thiên - Huế trong tham luận tại Hội nghị khoa học do Bộ Quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức tháng 3 năm 1986 cho biết, khi quyết định rút lực lượng khỏi nội thành Huế, Khu ủy và Bộ tư lệnh quân khu Trị - Thiên "chỉ nghĩ làm sao bảo toàn được các đơn vị chiến đấu (các trung đoàn 3, 6, 9, 1 và các đơn vị đặc công, biệt động, bộ đội địa phương) không bị đối phương bao vây, tiêu diệt. Ngoài ra, không còn nghĩ được biện pháp nào để bảo toàn cơ sở quần chúng, không kịp nghĩ gì đến phương châm, phương pháp đấu tranh, càng không nghĩ được là sau khi rút ra phải làm gì và làm thế nào; ngoài việc lo sao cho bộ đội không bị đói" (xem thêm: Trần Văn Quang: Huế - 25 ngày đêm. Tạp chí Lịch sử quân sự trích đăng, số tháng 2 năm 1988).
[16] Từ giữa tháng 3 năm 1968, Mỹ, chính quyền Sài Gòn tập trung 50.000 quân mở chiến dịch mang tên "Quyết thắng" trên địa bàn 5 tỉnh Gia Định, Long An, Biên Hòa, Bình Dương, Hậu Nghĩa. Xa hơn về phía Nam, đối phương mở chiến dịch "Trương Công Định" ở vùng Hậu Giang. Tại khu vực giới tuyến quân sự tạm thời, tại Tây Nguyên, tại Quảng Nam, Quảng Ngãi..., Mỹ, Quân đội Sài Gòn mở nhiều chiến dịch càn quét, đánh phá ác liệt cơ sở cách mạng và vùng làm chủ, vùng giải phóng.
[17] Việc Mỹ dùng một khối lượng lớn bom đạn đánh xuống các vùng ven đô thị đã được báo chí Mỹ và phương Tây ngày đó ghi nhận. Chỉ riêng xung quanh Sài Gòn - Gia Định, trong vòng 9 ngày đầu tháng 6 năm 1968, "máy bay B.52 đã thực hiện 166 phi vụ (...) nhằm ngăn chặn Việt cộng tập trung" (Hãng tin AP, ngày 21 tháng 6 năm 1968). Để hiểu rõ hơn mức độ tàn phá của bom đạn do máy bay B.52 rải thảm, cũng cần nhắc lại rằng: "Mỗi chiếc B.52 có đủ bom để trải xuống thành một hình chữ nhật dài 1.000 mét, ngang 100 mét. Thấy kết quả khả quan nên số phi vụ B.52 tại Nam Việt Nam được thực hiện ngày một tăng; trong nửa cuối năm 1965, mỗi tuần có 50 phi vụ; năm 1966, số phi vụ hàng tuần là 100; đầu năm 1967, mỗi tuần có 186 phi vụ và bây giờ (tháng 8 năm 1968) thì mỗi tuần có 350 phi vụ (Thời báo Niu Yoóc ngày 26 tháng 8 năm 1968). Ngay từ tháng 6 năm 1968, tướng Mỹ Abram - người thay Oét-mo-len làm Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn - đã tuyên bố: "Sẽ cho B.52 ném thật nhiều bom đến mức (...) chỉ cần phái một đội tuần tra không vũ trang đi xa với những quyển sổ tay để ghi kết quả" (Hãng tin AP, ngày 29 tháng 6 năm 1968).
[18] Điển hình là vụ thảm sát Sơn Mỹ - vùng ven thị xã Quảng Ngãi, ngày 16 tháng 3 năm 1968. Tập sách ảnh Nhật Bản "Việt Nam: cách mạng và thắng lợi" ghi lại vụ thảm sát này như sau: "Ngày 16 tháng 3 năm 1968, xã Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi bị quân Mỹ triệt hạ, tàn sát một lúc 500 thường dân. Lúc đó, quân Mỹ dùng mọi loại máy bay sẵn có chia làm bốn tầng bay trên bầu trời Sơn Mỹ. Bay thấp dưới 300 mét là máy bay lên thẳng vũ trang bắn chết tất cả những "Việt cộng" định thoát ra khỏi xã. Trên 300 mét là máy bay chở sĩ quan tư lệnh quân cơ động, chỉ huy trận đánh. Trên 800 mét là máy bay sư đoàn trưởng quan sát trận đánh. Sự tàn bạo lên đến cực điểm khi quân Mỹ coi những cuộc hành quân đó như một trò chơi thể thao. Nó làm chúng ta phẫn nỗ tới mức không thể nào tả nổi" (Dẫn theo Viện lịch sử Đảng, Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến: Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975), H, 1992, tr.403). Cần lưu ý thêm ở đây rằng, con số chính xác số người bị quân Mỹ tàn sát ở Sơn Mỹ là 501 người, trong đó có 173 trẻ em và 182 phụ nữ. Nhưng thực ra, không phải chỉ sau "Tết Mậu thân" mà ngay từ những năm trước, quân đội Mỹ đã tiến hành nhiều vụ thảm sát dân thường vô tội ở miền Nam Việt Nam (trong khi không quân và hải quân Mỹ dội bom xuống nhiều khu vực dân cư, trường học, bệnh viện, nhà thờ, chùa chiền... trên miền Bắc Việt Nam). Gần đây, hành động thảm sát vô nhân tính ngày ấy của quân Mỹ đã bị một số tờ báo Mỹ đưa ra ánh sáng. Ví như, tờ "Lưỡi dao cạo" (The Blade) ngày 19 tháng 10 năm 2003 đã khởi đăng một loạt phóng sự và ảnh điều tra xunh quanh các vụ thảm sát thường dân Việt Nam mà đơn vị đặc nhiệm Mỹ có tên là "Lực lượng mãnh hổ" (Tiger Force) thuộc sư đoàn kỵ binh bay số 101 Mỹ tiến hành trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 11 năm 1967 tại các địa phương thuộc Quảng Ngãi và Tây Nguyên. Dựa trên một bản báo cáo được giải mật dài 22 trang của Bộ quốc phòng Mỹ và sau hơn 8 tháng điều tra, nhóm phóng viên của tờ "Lưỡi dao cạo" cho biết: đơn vị "Lực lượng mãnh hổ" gồm 45 binh sĩ Mỹ đã thực hiện nhiều vụ thảm sát thường dân trước khi xảy ra vụ Mỹ Lai. Đơn vị này được thành lập từ tháng 2 năm 1967 theo lệnh của Oét-mo‑len. Trong một thời gian ngắn, đơn vị này đã giết hại dã man hàng trăm phụ nữ, trẻ em và người già không một tấc sắt trong tay, chôn sống họ trong những hố chôn tập thể. Tàn ác hơn, những tên lính trong đơn vị này còn cắt tai nạn nhân làm vòng đeo cổ, cạy răng lấy vàng hay tra tấn tàn bạo họ. Con số nạn nhân của "lực lượng mãnh hổ" hiện nay chưa ai tính được, song nhóm phóng viên điều tra dẫn lời một cựu lính quân y trong đơn vị này cho biết, ông ta đã tính được có tới 120 người bị sát hại trong một tháng.
 [19] Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 4 năm 1968
[20] Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 8 năm 1968.
[21] Sau đợt 1 Tết Mậu Thân, Lê Trọng Tấn - Phó Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền được cử ra Hà Nội trực tiếp báo cáo với Bộ Chính trị và xin được mở đợt 2 vào Sài Gòn. Sau đợt 2, Mặt trận Quảng Đà và một số mặt trận khác đề nghị tiếp tục mở đợt 3.
[22] Việc Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải rút bỏ Khe Sanh để tránh bị tiêu diệt đã được dư luận thế giới ngày đó bình luận sôi nổi. Đài phát thanh BBC ngày 30 tháng 6 năm 1968 nhận định: "Việc rút lui Khe Sanh không phải đơn giản bỏ rơi một yếu điểm, mà là bỏ rơi một ảo tưởng và một chính sách. Tất cả nỗ lực của Hoa Kỳ dựng lên đã tan ra tro như những pháo đài xi măng cốt sắt ở Khe Sanh". Còn trước đó, ngày 27 tháng 6 năm 1968, Hãng tin AP viết: "Việc quân Mỹ rút khỏi Khe Sanh là một thất bại đối với Mỹ. Các quan chức cao cấp của Mỹ ở Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn đã từng nói phải bảo vệ căn cứ này bằng bất cứ giá nào, thậm chí nhiều người phát ngôn của lính thủy đánh bộ Mỹ còn nói: "Nếu chúng ta rút khỏi Khe Sanh thì liệu chúng ta dừng lại ở đâu? Trên biển Nam Hải chắc?".
[23] Trong tham luận Ghi nhớ về xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện đòn tiến công chiến lược Mậu Thân 1968 đăng trong kỷ yếu hội thảo khoa học (năm 1998), Thượng tướng Lê Ngọc Hiền - nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng, Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu cho biết: Sau đợt 2, vào khoảng tháng 6 năm 1968, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã chính thức xác nhận phải chuyển hướng tiến công chiến lược từ thành phố về nông thôn, rừng núi "cho dù chủ trương đó không thể hiện ra thành nghị quyết hoặc quyết định chính thức (vấn đề này được ghi trong biên bản cuộc hội ý của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt)". Cũng trong bài viết này, tác giả chỉ ra: "Trên thực tế sau đợt 3, đã không còn có đợt 4, đợt 5 tổng công kích - tổng khởi nghĩa vào đầu năm 1969 nữa. Tuy thế, để nghi binh, lừa địch trong khi chủ lực ta đã chuyển về địa bàn nông thôn, rừng núi cũng như để phục vụ cho công tác tuyên truyền đối ngoại, phục vụ cho đấu tranh ngoại giao... ta đã bằng nhiều cách "tạo cảm giác" tiếp tục đẩy mạnh các đợt tổng công kích - tổng khởi nghĩa nhằm vào đô thị".
[24] Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Mấy vấn đề về tổng kết chiến tranh và viết lịch sử quân sự (những bài nói và viết chọn lọc của Đại tướng Hoàng Văn Thái - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng từ năm 1980-1986), H, 1987, tr.278. Về tổn thất của Quân giải phóng trong năm 1968, xem thêm phần phụ lục).
[25] Tháng 7 năm 1968, đối phương lập ra Ủy ban Phượng Hoàng các cấp nhằm đánh phá cơ sở Cách mạng miền Nam bằng các hoạt động ám sát, bắt cóc. Nhân viên hoạt động trong tổ chức này phần lớn được tuyển chọn trong lực lượng ác ôn, được nhận lương và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Cục tình báo Trung ương Mỹ C.I.A.
[26] Hãng tin A.P, ngày 1 tháng 12 năm 1968.
[27] Trích từ tham luận Cục Khoa học quân sự - Bộ Tổng tham mưu - Bộ Quốc phòng trong Hội thảo khoa học tháng 3 năm 1986. Tlđd.
[28] Đỗ Thôn: Sai lầm chiến lược của đế quốc Mỹ... Tạp chí Lịch sử quân sự, số 8 năm 1986.
[29]Đức Thọ: Một số vấn đề tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân sự, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989, tr.56.

4 nhận xét:

  1. Bài viết khá chi tiết và hay, nhưng tên các địa danh thì lại viết không chính xác, ví dụ như : Công Tum, Play cu .. tên đúng là Kon Tum, Pleiku.

    Trả lờiXóa
  2. Viết về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, thì có nhiều sách báo viết. Nhiều bài viết thường thì chung chung, sơ sài. Khi chi tiết thì lại chi tiết quá, thành ra người đọc khó cảm nhận được hết diễn biến và sự kiện của chiến dịch. Theo ý kiến của tôi, bài viết này của PGS, TS Hồ Khang rất ấn tượng, tốt. Tôi có quan điểm khác bạn Quốc Hoàng về tên các địa danh không chính xác. Nếu viết như trong bài theo tôi cũng không sai, vì trước đó trong ngữ nghĩa tiếng Việt, chúng ta hay viết Play Cu, Công Tum..., điều này thể hiện trong các văn bản, các bức điện của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương... về chiến dịch Mậu Thân 1968, do đó trong ngữ cảnh viết về cuộc Tiến công và nổi dậy này thì không sai. Có chăng ta nên mở ngoặc đơn hoặc chú thích bên dưới, ví dụ: Công Tum (Kon Tum...). Theo quan điểm tôi, bài viết có hai điểm cần chỉnh chút: một là, viết hoa từ chỉ phương hướng (ví dụ: Tây Bắc, phía Nam,...) là không đúng, mà phải viết thường. Chỉ có những từ ngữ chỉ phương hướng mà gắn với địa danh rõ rang thì mới viết hoa (ví dụ: Đông Bắc Bộ, Bắc Tây Nguyên, Nam Tây Nguyên, Nam Trung Bộ,...). Ngoài ra nên viết hoa toàn bộ chữ "Mậu Thân", chứ không phải riêng chữ "Mậu", vì chữ "Thân" mới là chủ thể cần hướng đến. Hai là, để chữ in nghiêng nhiều (dù biết tác giả muốn nhấn mạnh ý cần diễn đạt) xong trên khía cạnh độc giả tôi thấy hơi khó chịu, đang đọc theo diễn biến của bài thì lại xuất hiện chữ nghiêng, chữ thẳng thành ra mất hứng, thẩm mỹ cũng không được đẹp. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, thời gian chuẩn bị là yếu tố quan trọng, có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến nơi nổ súng trước, nơi nổ súng sau... Trên đây là một số góp ý, nếu không đúng mong tác giả lượng thứ. NguyenHoa.

    Trả lờiXóa
  3. Tác giả trân trọng và rất cám ơn nhận xét, góp ý NguyenHoa. Tác giả sẽ tiếp thu và chỉnh sửa những góp ý hợp lý. Một lần nữa xin được chân thành cám ơn!

    Trả lờiXóa

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!