Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

QUÂN TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM GIÚP ĐỠ NHÂN DÂN LÀO XÂY DỰNG CĂN CỨ KHÁNG CHIẾN HẠ LÀO

PGS,TS. Hồ Khang
Trong lịch sử phát triển của thế giới đương đại, hiếm có những quốc gia, dân tộc có mối quan hệ và tình đoàn kết đặc biệt như Việt Nam và Lào. Từ lúc phôi thai cho tới nay, cách mạng hai nước luôn gắn bó chặt chẽ. Trải qua năm tháng, tình đoàn kết của nhân dân hai nước đã trở thành một quy luật tất yếu. Trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trên tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, Quân tình nguyện Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các chiến trường Lào, cùng nhân dân các bộ tộc Lào chiến đấu, viết nên “mối tình đặc biệt Việt - Lào”, mà căn cứ kháng chiến Hạ Lào[1] là một trong những dấu ấn như thế.
1- Khu kháng chiến Hạ Lào trong kháng chiến chống Pháp
Hạ Lào có vị trí chiến lược quan trọng đối với Lào, Nam Việt Nam, Thái Lan và Campuchia, nên khu vực này, một mặt, là chỗ đứng chân của lực lượng kháng chiến; mặt khác, trở thành đối tượng xâm chiếm, đánh phá của cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Ngay sau khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Lào, với quan hệ truyền thống gắn bó tốt đẹp và theo Hiệp định[2] liên minh giữa hai nước, dù lực lượng còn nhỏ yếu, vũ khí thiếu thốn, Việt Nam đã nhanh chóng đưa các đơn vị vũ trang sang phối hợp chiến đấu với quân dân Lào. Theo đường số 9, Liên quân Việt - Lào đã đánh địch ở Sê Pôn, Mường Phìn (Xa-vẳn-na-khệt), Bản Cơn, Thà Ngòn, Ilay (Viêng Chăn), Huội Xài, Sầm Nưa, Xiêng Khoảng, Nọong Hét (dọc đường số 7) và Na Pê, Khăm Cợt, Lạc Xao (dọc đường số 8)...
Trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn, nhận rõ tầm quan trọng, vị trí chiến lược của vùng đất Hạ Lào, lãnh đạo Chính phủ độc lập lâm thời Lào Ít-xa-la đã đề nghị Chính phủ Việt Nam giúp đỡ xây dựng khu kháng chiến Hạ Lào. Đáp ứng yêu cầu, tháng 5-1948, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã giao nhiệm vụ cho Liên khu 5 cử cán bộ và lực lượng vũ trang giúp đặt nền móng cho khu kháng chiến. Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, Liên khu 5 Việt Nam đã nhanh chóng đưa lực lượng sang giúp quân và dân Hạ Lào xây dựng căn cứ. Tỉnh uỷ Quảng Nam- Đà Nẵng và Trung đoàn 93 nhận trách nhiệm đ­ưa đội vũ trang khảo sát tình hình vùng biên giới các tỉnh Hạ Lào, giáp với Quảng Nam-Đà Nẵng[3]. Ngày 19-8-1948, Quân tình nguyện Việt Nam lên đường Tây Tiến đã tập trung tại một địa điểm ở Quảng Ngãi, quán triệt sâu sắc quan điểm “chỉ có vận động được nhân dân Lào đứng dậy kháng chiến thì mới tiêu diệt được giặc Pháp”[4]. Từ đây, phong trào đấu tranh của Liên khu 5 Việt Nam và Hạ Lào luôn có sự giúp đỡ, hợp tác, tạo điều kiện cùng phát triển.
Cuối năm 1948, Khăm-tày Xi-phăn-đon cùng ông Xỉ-thôn Cô-ma-đăm sang Liên khu 5. Trên cương vị là đại diện Chính phủ độc lập lâm thời Lào It-xa-la tại Hạ Lào, Khăm-tày Xi-phăn-đon chính thức trao Công hàm của Hoàng thân Xu-pha-nu-vông cho Phạm Văn Đồng- đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đề nghị phía Việt Nam giúp đỡ thành lập Khu kháng chiến Hạ Lào.
Được Việt Nam hỗ trợ, ngày 1-3-1949[5], tại Khu căn cứ Đắc Chưng (tỉnh At-ta-pư), Khăm-tày Xi-phăn-đon chính thức tuyên bố thành lập Ủy ban kháng chiến và Khu quân sự Hạ Lào (hay còn gọi là Khu kháng chiến Hạ Lào). Ông Xỉ-thôn Cô-ma-đăm được cử làm Khu trưởng kiêm chỉ huy quân sự; ông Xổm Ma-nô-viêng được cử làm Chủ tịch chính quyền Khu. Sau khi Khu kháng chiến Hạ Lào ra đời, Việt Nam giải thể Khu đặc biệt[6], thành lập Ban Cán sự Hạ Lào do Nguyễn Chính Cầu làm Bí thư, Ban chỉ huy Quân tình nguyện Việt Nam ở Hạ Lào do Đoàn Huyên làm Chỉ huy trưởng. Sự điều chỉnh này nhằm đảm bảo tính hợp lý và hiệu trong quan hệ phối hợp, giúp đỡ giữa quân đội Việt - Lào trên chiến trường Hạ Lào.
Hơn hai tháng sau khi thành lập, nhận thấy những thiết sót về chỉ huy, kỹ thuật, chiến thuật cũng như phương pháp vận động quần chúng tại Khu kháng chiến Hạ Lào, ngày 15-5-1949, lãnh đạo Khu thống nhất với Ban Cán sự Hạ Lào đưa quân về vùng tự do Quảng Nam - Đà Nẵng tiến hành đợt chỉnh huấn quân sự, chính trị. Qua đợt chỉnh huấn, trình độ về quân sự, nhận thức chính trị, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ có sự chuyển biến rõ rệt.
Kết thúc đợt chỉnh huấn, ngày 25-6-1949, Liên khu 5 đã tổ chức Hội nghị rút kinh nghiệm về công tác xây dựng cơ sở cách mạng tại Hạ Lào. Khu trưởng Khu Hạ Lào Khăm-tày Xi-phăn-đon, Xỉ-thôn Cô-ma-đăm - đại diện Chính phủ Lào It-xa-la đã tham dự. Hội nghị quyết định nhiều vấn đề quan trọng, các đại biểu nhất trí lấy vùng đồng bằng của tỉnh At-ta-pư làm nơi xây dựng khu giải phóng của Hạ Lào. Về quân sự, “Liên khu 5 đã tăng cường hai đại đội quân tình nguyện cho liên quân Lào - Việt ở Hạ Lào. Đại bộ phận bộ đội Lào - Việt chia làm ba mũi vượt sông Xê Công, sang vùng tây nam At-ta-pư, Bô-lô-ven, Xa-ra-van xây dựng căn cứ mới”[7]. Đến cuối năm 1949, các lực lượng Việt - Lào đã xây dựng căn cứ đứng chân ở phía đông Hạ Lào (Xa-ra-van, At-ta-pư, Xê- Công), thành lập các Hội It-xa-la, tổ dân quân du kích và chính quyền bản, xã... Được giác ngộ, nhân dân Khu kháng chiến Hạ Lào tích cực giúp đỡ bộ đội Lào - Việt chiến đấu chống cuộc càn quét của một tiểu đoàn Âu - Phi tăng viện phối hợp với quân địa phương chống phá Hạ Lào.
Ngày 21-1-1950, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Hội nghị toàn quốc lần thứ ba. Ngoài những nội dung chỉ đạo chiến trường chính Việt Nam, Hội nghị thống nhất quy định về tổ chức và danh nghĩa chính thức của các lực lượng quân sự Việt Nam hoạt động trên đất Lào, theo đó, “từ nay các lực lượng quân đội Việt Nam hoạt động ở Lào (và Miên) tổ chức theo hệ thống riêng của quân đội Việt Nam và mang danh nghĩa là quân tình nguyện”[8]. Cũng trong năm 1950, Ban Cán sự Hạ Lào mở hội nghị sơ kết công tác và chuẩn bị kế hoạch đối phó với địch. Hội nghị bàn việc chuyển hướng, phương châm hoạt động, củng cố cơ sở, xây dựng căn cứ đứng chân ở các khu vực. Ban Cán sự Hạ Lào quyết định thành lập Ban Chỉ huy mặt trận và Ban Cán sự ở mỗi vùng để thống nhất chỉ đạo các lực lượng của Việt Nam và trực tiếp giúp cán bộ Lào.
Mặt trận Tây Nam: Gồm tỉnh Chăm-pa-sắc (trừ khu vực Pạc-xòong, Pạc-xế), do Nguyễn Mộ phụ trách. Mặt trận có nhiệm vụ củng cố vùng đầm Phạ-phô làm chỗ đứng chân để chỉ đạo hoạt động của toàn tỉnh Chăm-pa-sắc, giữ vững và phát triển cơ sở vùng hữu ngạn sông Mê Kông, tích cực chống âm mưu bình định của thực dân Pháp.
Mặt trận Xara- Bôlô: Gồm các huyện U-đôm-xíng, Lầu-ngam, Tha-teng, Xa-ra-van, Không-xê-đôn và Va-pi-khăm-thoong, do Trần Quyết Thắng phụ trách. Mặt trận có nhiệm vụ thống nhất chỉ đạo các lực lượng giúp Lào ở Cao nguyên Bô-lô-ven; trước mắt, tích cực chống càn quét, bình định vùng Lầu-ngam và mở rộng cơ sở ra toàn vùng phía bắc cao nguyên, kể cả huyện Tha-teng, tiến tới nối liền cơ sở với các vùng ở phía nam Bô-lô-ven.
Mặt trận Xê-kông: Gồm các khu vực xung quanh thị xã At-ta-pư và các địa phương phía nam như Xa-xảm-xay, Xay-xệt-thá, Phu-vông, do Mai Trọng Định phụ trách. Mặt trận có nhiệm vụ chỉ đạo sự phối hợp hoạt động ở cả hai phía đông và tây thị xã Át-ta-pư, bao vây kiềm chế địch trong thị trấn Mường-mày, giữ vững hành lang tiếp vận từ Liên khu 5 sang Lào, từng bước xây dựng vùng tây nam At-ta-pư thành căn cứ kháng chiến của toàn Khu kháng chiến Hạ Lào.
Tháng 8-1950, Đại hội Mặt trận Lào kháng chiến được tổ chức, đề ra Cương lĩnh chính trị 12 điểm, bầu Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận Lào It-xa-la[9]. Cương lĩnh 12 điểm khẳng định: “Muốn kháng chiến, giành độc lập, lực lượng kháng chiến của ba dân tộc không thể chia cắt hẳn ra được. Nước Lào không thể độc lập được một khi Việt Nam và Miên chưa độc lập. Việt hay Miên không thể có sự độc lập thực sự được một khi nước Lào còn là bàn đạp của Pháp ở Đông Dương”[10]. Tiếp đó, tháng 2- 1951, Đại hội đại biểu lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương họp và đề cập vấn đề thành lập Mặt trận thống nhất các dân tộc Việt- Miên- Lào, thành lập ở mỗi nước một Đảng riêng, chủ trương tăng cường lực lượng giúp cách mạng Lào, Miên.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội II, các liên khu của Việt Nam lần lượt tăng cường lực lượng cho các mặt trận của Lào. Một tiểu đoàn Quân tình nguyện Liên Khu V  đã sang Hạ Lào, “ba cùng” với nhân dân Lào xây dựng cơ sở.
Những năm 1951- 1952 và đầu năm 1953, các lực lượng vũ trang Lào cùng Quân tình nguyện Việt Nam vượt mọi khó khăn trở ngại, kiên cường chiến đấu. Các Đại đội 7,8,9 Quân tình nguyện đã phối hợp với quân dân Khu kháng chiến Hạ Lào bám sát địa bàn chặn đánh các cuộc càn quét, gây cho đối phương nhiều tổn thất. Đến cuối năm 1952 - đầu năm 1953, các khu căn cứ kháng chiến ở Hạ Lào được xây dựng liên hoàn cả hai vùng đông, tây nam At-ta-pư, nối liền hai phía nam, bắc Cao nguyên Bô-lô-ven, trở thành trung tâm kháng chiến trên toàn Hạ Lào và là bàn đạp hỗ trợ, chi viện cho cuộc kháng chiến ở vùng Đông Bắc Campuchia.
Nhằm đánh bại kế hoạch Na-va, tháng 9-1953, Đảng Lao động Việt Nam chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954. Trên hướng Hạ Lào, Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 101 Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với các đơn vị quân đội Lào tiến công địch. Đầu năm 1954, trong trận mở đầu, Tiểu đoàn 436 và Đại đội 200 cùng với các đơn vị bộ đội Lào tập trung đánh vào cứ điểm Bản-pui và khống chế sân bay Mường-mày. Đại bộ phận quân địch bị tiêu diệt, số còn lại bỏ chạy về At-ta-pư. Chiến thắng ở Hạ Lào góp phần làm đảo lộn kế hoạch Na-va, dẫn đến sự phá sản hoàn toàn của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ (7-1954). Kháng chiến thắng lợi, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam tạm biệt Khu kháng chiến Hạ Lào trở về trong niềm vui chung thắng lợi.
2- Khu căn cứ Hạ Lào trong kháng chiến chống Mỹ
Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương, chính sách của Mỹ ở Lào và Nam Việt Nam là chính sách can thiệp dưới những hình thức khác nhau. Sau Hiệp định Geneve, lực lượng kháng chiến Lào tập kết về hai tỉnh Hủa-phăn (căn cứ Sầm Nưa) và Phong-xa-lỳ[11]. Chính quyền Viêng Chăn giành quyền kiểm soát đại bộ phận lãnh thổ Lào (10 tỉnh).
Thi hành Hiệp định Geneve và Hiệp định đình chiến ở Lào, ngày 23-7-1954, Bộ Quốc phòng và Chính phủ kháng chiến Lào ra lệnh thực hiện Hiệp định đình chiến trên toàn chiến trường Lào. Thực hiện quyết định này, các lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang Lào Ítxala khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt, chuyển trọng tâm hoạt động phù hợp với tình hình.
Từ giữa năm 1959, Mỹ bắt đầu tiến hành chiến lược chiến tranh đặc biệt ở Lào. Bước vào Xuân Hè năm 1960, cục diện mới xuất hiện trên chiến trường Đông Dương. Xác định đấu tranh vũ trang là chủ yếu ở Lào, ngày 15-7-1959, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam họp bàn về phương hướng hoạt động quân sự và giúp cách mạng Lào xây dựng lực lượng vũ trang, chủ trương “ở Hạ Lào thì xây dựng lực lượng chính trị, quân sự bí mật, rồi tiến tới đấu tranh vũ trang”[12]. Những tháng cuối năm 1960, tình hình Lào diễn biến phức tạp. Bộ Chính trị nhận định đây là thời kỳ khó khăn của cách mạng Lào, chủ trương giúp đỡ Lào “lúc này phải bí mật và nhanh chóng, chủ yếu là giúp ý kiến cho bạn làm”[13]; đồng thời, chỉ đạo Quân khu 4 chuẩn bị 1 tiểu đoàn nghiên cứu khả năng tổ chức lực lượng có thể đưa vào hoạt động ở Hạ Lào.
Từ đầu năm 1961, Mỹ và quân đội Sài Gòn đẩy mạnh đánh phá tuyến vận tải của Đoàn 559. Trước tình hình đó, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào đã thảo luận, thống nhất: Kiên trì giữ vững hành lang phía đông, lật cánh tuyến vận tải chiến lược sang phía Tây Trường Sơn. Tuy nhiên, từ năm 1963, Mỹ và lực lượng thân Mỹ ở các nước thuộc bán đảo Đông Dương lại tập trung đánh phá tuyến hành lang đông Trường Sơn, liên tiếp mở những cuộc càn quét vào miền Tây Trị Thiên dọc Đường 9. Trong điều kiện đó, Việt Nam đề nghị Lào cho phép sử dụng một bộ phận đất đai dọc hành lang Tây Trường Sơn ở Trung - Hạ Lào và đường 13, sông Mê Công, Đông Bắc Campuchia để mở tuyến chi viện và xây dựng căn cứ chiến lược chung cho các chiến trường Nam Đông Dương.
Đầu năm 1964, lần đầu tiên lực lượng không quân Mỹ ném bom xuống vùng giải phóng Trung - Hạ Lào và đến giữa năm tiếp tục cho máy bay bắn phá một số vùng khác như Bản Đông, Mường Phăn, Thà Thơm, Thà Viêng, Cánh Đồng Chum. Nhận thức rõ tầm quan trọng của chiến trường Hạ Lào, Đảng Lao động Việt Nam, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định giúp đỡ củng cố Hạ Lào. Theo thống kê của Bộ Tổng tham mưu, đến tháng 4-1964, lực lượng vũ trang, bán vũ trang cách mạng ở Hạ Lào “có 2.424 người, tổ chức thành 1 tiểu đoàn chủ lực, 4 đại đội địa phương tỉnh, 21 trung đội huyện, được trang bị tương đối đầy đủ, phần lớn là vũ khí chiến lợi phẩm và đã hoàn thành chương trình huấn luyện quân sự, chính trị năm 1963”[14]. Lực lượng du kích có “khoảng 5.200 người. Cơ sở Đảng ở Hạ Lào có 358 chi bộ với 2.622 đảng viên; cơ sở nhân dân được tổ chức ở 1.311 làng trong tổng số 1.740 làng và là vùng có cơ sở nhân dân vững từ thời kỳ kháng chiến”[15]. Để củng cố khu căn cứ Hạ Lào, Bộ Tổng tham mưu dự kiến tăng cường lực lượng giúp Hạ Lào xây dựng toàn diện trong 2 – 3 năm, đặt trọng tâm xây dựng cơ sở chính trị, lực lượng vũ trang, kinh tế, mở rộng khu căn cứ Hạ Lào, nối liền với Liên khu 5 thành một căn cứ rộng lớn và vững chắc. Các phương châm trong xây dựng kinh tế, xây dựng lực lượng, trong hoạt động và trong tác chiến được xác định như sau: 1- Lấy việc đẩy mạnh sản xuất của nhân dân là chủ yếu, kết hợp tổ chức các tập thể nhỏ của bộ đội ở những khu vực có điều kiện; 2- Lấy chất lượng làm chính, nhưng phải chú trọng số lượng, xây dựng đồng thời chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích trên cơ sở tính toán khả năng cung cấp của địa phương và nhiệm vụ cách mạng; 3- Kết hợp chặt chẽ giữa 3 mặt chính trị, quân sự, kinh tế, kết hợp củng cố vùng giải phóng và đẩy mạnh hoạt động ở vùng địch hậu; 4- Lấy chiến tranh du kích làm chính, đánh địch ngoài công sự làm chủ yếu, đồng thời kết hợp nhổ một số vị trí có khả năng bảo đảm chắc thắng; kết hợp giữa tiêu hao và tiêu diệt, giữa tác chiến và địch vận[16].
Ngoài ra, Việt Nam còn tăng cường cho Hạ Lào một số chuyên gia dân sự, quân sự và một đội vũ trang công tác. Chuyên gia quân sự bố trí từ quân khu đến cấp tỉnh và các tiểu đoàn tập trung; lực lượng chuyên gia gồm các thành phần cán bộ quân sự, chính trị, hậu cần. Chuyên gia dân, Đảng được bố trí đến cấp huyện. Đội vũ trang công tác hoạt động theo phương thức khi tác chiến thì tập trung, lúc làm công tác thì phân tán nhỏ đến trung đội, số cán bộ thì phân tán xuống các địa phương để giúp đỡ cán bộ bản, tà sẻng[17].
Để bảo đảm lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy và hiệp đồng được chặt chẽ, Bộ Tổng tham mưu đề nghị: Thành lập đảng ủy thống nhất dân, chính, Đảng ở Hạ Lào để chỉ đạo lực lượng của Việt Nam tại đó; cho phép tổ chuyên gia miền Đông quan hệ với Khu 5 trao đổi tình hình lúc cần thiết. Quân ủy Trung ương trực tiếp chỉ đạo công tác ở Hạ Lào, các mặt bảo đảm vật chất, quản lý con người, vấn đề hậu phương của cán bộ. Quân tình nguyện Việt Nam công tác ở Hạ Lào do Quân khu 4 đảm nhiệm và dựa vào khả năng kinh tế từng địa phương để sống, việc tiếp tế trong nước sang chủ yếu là trang bị, thuốc men và một phần hàng hóa dùng để đổi lấy những thứ cần thiết.
Sang năm 1965, chính sách của Mỹ là muốn “gắn việc giải quyết tình hình Lào vào vấn đề Việt Nam, chủ yếu là nhằm phối hợp ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc Việt Nam qua đường hành lang bằng biện pháp đẩy mạnh quân sự lên một bước”[18]. Những hoạt động quân sự của Mỹ tập trung chủ yếu ở khu vực đường 9, vùng giải phóng Trung và Hạ Lào, sau đó tấn công chiếm lại Cánh Đồng Chum để làm bàn đạp đánh phá miền Bắc. Tháng 6-1965, giữa lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào có cuộc hội đàm. Hai bên cùng nhận định Hạ Lào là con đường để Mỹ đi vào miền Nam; do đó, Mỹ sẽ tập trung lực lượng để giữ cho được Hạ Lào, nếu như chiến tranh cục bộ xảy ra, Hạ Lào và miền Nam trở thành chiến trường chung. Từ đó, đại diện hai Đảng xác định nội dung giúp Lào là tập trung giúp xây dựng vùng giải phóng về mọi mặt với quy mô một quốc gia và chủ yếu giúp xây dựng lực lượng vũ trang. Tháng 12-1965, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, một lần nữa Lê Duẩn nhấn mạnh: “Phải giúp đỡ cách mạng Lào một cách toàn diện và trên tất cả các mặt trận, nhưng phải đặc biệt coi trọng mặt trận Trung, Hạ - Lào, vì đế quốc Mỹ đang có âm mưu đánh rộng ra ở vùng này để cô lập miền Nam với miền Bắc. Vì vậy, chi viện cho Trung, Hạ - Lào là một vấn đề rất quan trọng”[19]. Thực hiện chủ trương trên, Việt Nam kiện toàn bộ máy chỉ huy, chuẩn bị lực lượng giúp Lào củng cố mở rộng vùng giải phóng.
Về tăng cường lực lượng, đầu năm 1965, Bộ Tổng tham mưu cử hơn 100 trinh sát đặc công thuộc Cục tình báo theo chế độ tình nguyện sang tăng cường cho Đoàn 559, Đoàn 763; cử nhiều đơn vị bộ binh, phòng không tăng cường cho Đoàn 559 làm nhiệm vụ mở đường, tổ chức vận chuyển chi viện, bảo vệ tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn ở Trung và Hạ Lào. Giữa năm 1965, đơn vị chủ lực của Quân khu 4 - Sư đoàn 341[20] và 2 Trung đoàn 27, 29 được điều sang hoạt động ở Trung và Hạ Lào. Cuối năm 1965, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 Việt Nam phái tiểu đoàn 3 thuộc Sư đoàn 341 sang Áttapư (Hạ Lào) giúp xây dựng, bảo vệ, mở rộng vùng giải phóng và xây dựng lực lượng vũ trang. Tháng 5-1966, Thường trực Quân ủy quyết định tổ chức Quân tình nguyện ở Trung – Hạ Lào với quân số lên đến 4.500 người[21].
Về tổ chức cơ quan chỉ đạo giúp Hạ Lào, Bộ Tổng tham mưu phân công Quân khu 4 chỉ huy hướng Trung – Hạ Lào, chịu trách nhiệm thành lập Bộ Tư lệnh Trung -Hạ Lào. Tháng 8-1966, Quân khu 4 tổ chức một cơ quan lấy mật danh là Đoàn 565[22], có nhiệm vụ giúp đỡ quân sự, chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng quân tình nguyện và chuyên gia quân sự ở Trung – Hạ Lào[23].
Nhờ bố trí, điều động, sắp xếp lực lượng nhanh chóng và hợp lý, tháng 9-1965, Quân tình nguyện Việt Nam và quân, dân các tỉnh Xalavan, Xavannakhệt, Xiêng Khoảng liên tục đánh bại nhiều cuộc tấn công của đối phương, bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng Nam Lào, Trung Lào. Tháng 5-1967, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Quân khu 4 và Đoàn 559 phối hợp chiến đấu ở Hạ Lào, dùng lực lượng Quân tình nguyện, lực lượng vũ trang Lào tiêu diệt địch ở Bản Phồn, chống bình định ở Lào Ngăm, tiếp tế cho bộ đội tình nguyện ở Xa-ra-van và giúp dân sản xuất. Lực lượng của Quân khu 4 và Đoàn 559 đã hoàn thành tốt kế hoạch tác chiến[24].
Mùa khô 1968-1969, Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang Lào mở chiến dịch tiến công, giải phóng thị trấn Tha Teng, thị xã Salavan, mở rộng vùng giải phóng Nam Lào liên hoàn từ đông Đường số 9 xuống tỉnh Áttapư, tạo điều kiện uy hiếp đối phương trên các thị xã Pắk Xoòng, Salavan, Áttapư, góp phần bảo vệ, giữ vững hành lang tuyến vận tải chiến lược qua địa bàn Trung - Hạ Lào[25]. Từ năm 1970 đến năm 1971, phối hợp với Quân giải phóng nhân dân Lào, Quân tình nguyện Việt Nam tiến hành vây ép, đột phá khu phòng ngự then chốt và kết hợp tập kích, bao vây đón lõng tiêu diệt từng cụm, kết hợp tập kích hậu phương quan trọng của đối phương, giải phóng một khu vực rộng lớn ở Hạ Lào (Xalavan, Tha Teng, Pắc Xoòng, Áttapư, Bôlôven). Mùa mưa năm 1972, Đoàn 565 và Đoàn 968 cùng các lực lượng vũ trang Lào đập tan cuộc hành quân ''Sư tử đen'' của Quân đội Viêng Chăn vào khu vực Không Xê Đôn, đường số 23, Pắk Xoòng, Sa-ra-van, Tha Teng, Bô-lô-ven. Những năm 1973-1975, Quân tình nguyện Việt Nam tích cực chiến đấu, giúp mở rộng vùng giải phóng Hạ Lào liên hoàn giữa các tỉnh Khăm Muộn, Xa Vẳn Na Khệt, Sa-ra-van, Át-ta-pư, bảo vệ vững chắc tuyến vận tải chiến lược 559 chi viện chiến trường Nam Đông Dương, góp phần đưa cuộc kháng chiến của nhân dân Lào đến thắng lợi. Năm 1975, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Hạ Lào và lần lượt rút về nước.
3- Xây dựng, củng cố căn cứ kháng chiến Hạ Lào – những kinh nghiệm lịch sử
Đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa các dân tộc Đông Dương là một yêu cầu khách quan, là quy luật sống còn của các dân tộc Đông Dương, trong đó tình đoàn kết chiến đấu Việt – Lào hết sức đặc biệt. Ở những bước ngoặt của kháng chiến, liên minh, phối hợp chiến đấu giữa Việt Nam và Lào góp phần tạo ra cục diện mới có lợi cho cách mạng Đông Dương. Phối hợp hành động với quân, dân Lào, Quân tình nguyện Việt Nam đã đóng góp tích cực vào những thắng lợi to lớn trong chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng đất nước của hai dân tộc Việt – Lào.
Dù gặp muôn vàn khó khăn gian khổ, nhưng gánh vác nhiệm vụ quốc tế, các chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã luôn sát cánh với nhân dân Lào, cùng chia ngọt, sẻ bùi, “hạt muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”, xây dựng và phát triển khu căn cứ kháng chiến Hạ Lào. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, khu căn cứ kháng chiến Hạ Lào không chỉ là chỗ dựa vững chắc của cách mạng Lào mà còn của cả chiến trường Đông Dương, góp phần quan trọng vào thắng lợi của ba nước Đông Dương. Khu căn cứ kháng chiến Hạ Lào là biểu trưng cho sức mạnh của nhân dân các bộ tộc Lào và cũng là biểu tượng sinh động của quan hệ và tình đoàn kết đặc biệt Việt- Lào.
Những năm kháng chiến cam go, đối đầu với những thế lực đế quốc hùng mạnh, “giúp bạn là tự giúp mình”, Quân tình nguyện Việt Nam đã coi mảnh đất Hạ Lào như ruột thịt, quê hương, ra sức giữ vững, củng cố, mở rộng và xây dựng vùng giải phóng, kiên quyết đánh bại các cuộc tấn công lấn chiếm của đối phương. Sự giúp đỡ tích cực, toàn diện, kịp thời tăng cường lực lượng chiến đấu của Quân tình nguyện Việt Nam đã có tác dụng to lớn trong quá trình lớn mạnh mọi mặt của căn cứ kháng chiến Hạ Lào.
Từ thực tiễn sinh động Quân tình nguyện Việt Nam giúp đỡ cách mạng Lào xây dựng khu căn cứ kháng chiến Hạ Lào, có thể đúc rút một số kinh nghiệm sau: Một là, tuân thủ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, độc lập, tự chủ của Lào, nêu cao tinh thần quốc tế, hợp tác bình đẳng; hai là, nắm vững quy luật phát triển của cách mạng Lào, nắm vững đặc điểm, tình hình cụ thể của địa phương, xác định nhiệm vụ, mục tiêu chính xác và biện pháp thực hiện phù hợp; ba là, phát huy nỗ lực chủ quan, không đùn đẩy trách nhiệm, chủ động giành phần khó về mình; bốn là, duy trì các hình thức trao đổi, bàn bạc tập thể với lãnh đạo Lào một cách thường xuyên, tận tình giải thích cho đến khi nắm vững, hiểu rõ phương hướng chỉ huy, nhiệm vụ và kế hoạch hành động; năm là, chú trọng giúp Lào phát triển lực lượng, củng cố thực lực mọi mặt, tăng cường khả năng tự lực cánh sinh của Lào; sáu là, xây dựng đi đôi với bảo vệ; kết hợp chặt chẽ giữa tiêu diệt địch và bảo đảm vận chuyển thông suốt, điều động lực lượng chiến trường nhanh chóng, kịp thời.
Sức ép lịch sử đã khiến trong trường kỳ đấu tranh, hai dân tộc Việt – Lào luôn nương dựa, đoàn kết, gắn bó. Sức ép lịch sử ấy ngày nay chẳng những không mất đi mà tiếp tục tồn tại, thậm chí với sức nặng lớn hơn. Chung khát vọng chân chính, nuôi dưỡng tinh thần Đông Dương, hai dân tộc Việt – Lào hiểu rõ, nắm vững quy luật sinh tồn của mình trong mỗi bước đường phát triển.




[1] Hạ Lào gồm ba tỉnh: Chăm-pa-sắc, Sa-la-van và At-ta-pư, chiếm khoảng 1/6 diện tích nước Lào.
[2] Ngày 30 tháng 10 năm 1945, Hiệp định Liên minh giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Lào It-xa-la được ký kết.
[3] Đội công tác do Hoàng Tăng, cán bộ đại đội thuộc Trung đoàn 93 chỉ huy.
[4] Hoài Nguyên: Đôi nét về quân tình nguyện Việt Nam ở Hạ Lào trong kháng chiến chống Pháp, in trong Quan hệ Việt- Lào, Lào - Việt, Nxb CTQG, H.1993, tr.133.
[5] Trong Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 58 có ghi ngày thành lập Ủy ban kháng chiến và Khu quân sự Hạ Lào là ngày 1 tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, đại đa số các tai liệu đã xuất bản thì lấy ngày 1 tháng 3 năm 1949 là ngày thành lập Khu kháng chiến Hạ Lào, như: Lịch sử quân đội nhân dân Lào, bản tiếng Việt, tr. 60; Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh Hạ Lào (1945-1975), bản tiếng Việt, tr. 80,v.v... Lưu Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
[6] Đầu năm 1948, Chính phủ Lào It-xa-la chính thức đề nghị phía Việt Nam giúp đỡ xây dựng Khu kháng chiến Hạ Lào. Ngày 10 tháng 7 năm 1948, Phạm Văn Đồng thay mặt Chính phú Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký Quyết định thành lập Khu Đặc biệt ở vùng Tà Ngô thuộc huyện Bến Giằng, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, sát biên giới hai nước, làm căn cứ chiến đấu cho các lực lượng vũ trang Lào - Việt.
[7] Hoài Nguyên: Đôi nét về quân tình nguyện Việt Nam ở Hạ Lào trong kháng chiến chống Pháp, in trong Quan hệ Việt- Lào, Lào - Việt, Nxb CTQG, H.1993, tr.132, 136.
[8] Hồ sơ số 970/BCHTW, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
[9] Gồm 12 người, do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông làm Chủ tịch kiêm Thủ tướng Chính phủ.
[10] Hồ sơ số 1660, Lưu Trung tâm lưu trữ Quốc gia I Hà Nội.
[11] Hai tỉnh Sầm Nưa, Phong Xa Lỳ và một dãy hành lang nối liền hai tỉnh, xuyên qua phía đông tỉnh Luông Phra Băng, gọi là “Đàn Pẹt” (tiểu khu 8) - một vùng rừng núi hiểm trở với diện tích khoảng 32.770 km2, nơi cư trú của 32 vạn dân gồm nhiều bộ tộc sống xen kẽ nhau, từng là vùng căn cứ Trung ương cách mạng Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nối liền với khu Tây Bắc và Liên khu 4 (Việt Nam) trở thành chỗ đứng chân của lực lượng cách mạng Lào sau Hiệp định Geneve. Trong khi quân tình nguyện Việt Nam rút về nước, quân Pháp triệt thoái khỏi Lào trong thời hạn 120 ngày (kể từ ngày ký Hiệp định Giơ-ne-vơ), các lực lượng cách mạng Lào từ khắp nơi trong cả nước chuyển về tập kết ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phong Xa Lỳ, chờ hai phái Pa-thét Lào và Chính phủ Vương quốc Lào đàm phán tìm giải pháp chính trị hoà hợp dân tộc, bảo đảm quyền tự do cho nhân dân xây dựng lại cuộc sống ấm no hạnh phúc.
[12] Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam: Biên niên sự kiện Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tập I (tháng 7/1954-12/1960), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003,tr.307.
[13] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam:Lịch sử các đoàn quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.109.
[14] Trung tâm lưu trữ Quốc phòng, phông Cục Tác chiến, hồ sơ 946.
[15] Tlđd.
[16] Tlđd.
[17] Một đơn vị hành chính gồm nhiều bản, tương đương như xã.
[18]Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam: Biên niên sự kiện Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tập III (1964-1965), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr.354.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 26, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.605.
[20] Sang thay cho Sư đoàn 324.
[21] Tài liệu  lưu trữ Bộ Quốc phòng, Phông Cục Tác chiến, Hồ sơ 1942.
[22] Đoàn 565 (dấu đơn vị 5050) là đoàn chuyên gia quân sự của Quân khu 4, chịu sự chỉ đạo toàn diện của Quân khu 4.
[23] Tài liệu  lưu trữ Bộ Quốc phòng, Phông Bộ Tổng tham mưu, Hồ sơ 1034.
[24] Điện lưu tại Cục Cơ yếu, Bộ Tổng tham mưu.
[25]Bộ Quốc Phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 274.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!