Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2014

TRẬN ĐÁNH TRÊN SÔNG BA RÀI - GIÁ TRỊ VƯỢT HƠN MỘT TRẬN ĐÁNH

             Hồ Khang & Trần Ngọc Long
Trong cuộc chiến Việt Nam (1954-1975), cùng với việc triển khai các chiến lược chiến tranh, Mỹ đồng thời thực hiện nhiều hình thức, chiến thuật được mệnh danh là "tân kỳ” hòng tiêu diệt lực lượng vũ trang miền Nam, đè bẹp sự kháng cự của nhân dân miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, như lịch sử đã chứng tỏ, tất thảy những hình thức chiến thuật đó, sau một thời gian được áp dụng ở miền Nam, cuối cùng đã bị hoàn toàn thất bại. Trên chiến trường sông nước Tiền Giang cũng vậy, nếu như Ấp Bắc được coi là trận thắng tiêu biểu, mở đầu cho sự phá sản của chiến thuật "trực thăng vận" và "thiết xa vận", thì Ba Rài cũng là một trận thắng tiêu biểu mở đầu cho sự phá sản chiến thuật "hạm đội nhỏ trên sông" của Mỹ, quân đội và chính quyền Sài Gòn trong "chiến tranh cục bộ". 
Trong khuôn khổ bài viết này, xin được làm rõ nhận định trên qua sự tìm hiểu đôi nét về "lực lượng đặc nhiệm thủy - bộ" của sư đoàn 9 - đốì thủ của các tiểu đoàn 263 và 514 trong cuộc đụng đầu giữa đôi bên trên dòng sông Ba Rài ngày 15-9-1967.
Khi bắt đầu triển khai thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ”, các chiến lược gia Hoa Kỳ đã tính đến khả năng và hiệu quả của việc đưa quân Mỹ xuống vùng 4 chiến thuật - một vùng đồng bằng trống trải, nhiều sình lầy và kinh rạch chằng chịt. Trên một địa hình như thế, theo họ, nhiệm vụ của quân Mỹ ở đây không phải là để mở những cuộc hành quân quy mô lớn "tìm diệt" quân giải phóng như miền Trung và Đông Nam bộ mà nhiệm vụ chủ yếu là đốì phó với chiến tranh du kích, với phong trào nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng cách mạng đang lan rộng tại đây và nhiều nơi khác ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chính vì lẽ đó, trong tính toán của Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ (MACV), lực lượng quân Mỹ tham chiến vùng 4 chiến thuật cần phải có sự đổi mới về cơ cấu tổ chức, cần áp dụng một chiến thuật hợp lý, và cần được trang bị thích hợp với điều kiện địa hình khá đặc trưng trên vùng sình lầy, sông nước.
Đầu tháng 12-1965, khái niệm về lực lượng nổi trên sông của Mỹ ở đồng bằng sông Cửu Long được viên tướng một sao Uyliam Đơpuy đệ trình lên tướng Oétmolẹn. Cuối tháng 12 năm đó, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương bắt tay thực hiện kế hoạch xây dựng lực lượng đặc nhiệm thủy - bộ trên sông. Nhiệm vụ chính của lực lượng này được xác định là để bảo đảm an toàn cho các căn cứ quân sự Mỹ và các tuyến giao thông quan trọng, phối hợp với các lực lượng khác của quân đội và chính quyền Sài Gòn tiến hành các hoạt động tiến công quân giải phóng, yểm trợ cho công tác bình định nông thôn.
Ngày 5-7-1966 Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ M.Namara chính thức phê chuẩn quyết định tổ chức lực lượng đặc nhiệm thủy bộ. 6 tháng sau, ngày 28-1-1967, lực lượng này chính thức được triển khai tại căn cứ Đồng Tâm - Mỹ Tho. Cần phải nói ngay ở đây rằng, trong đội hình sư đoàn 9 thì lữ đoàn 2 là lực lượng nòng cốt của cái gọi là "lực lượng đặc nhiệm thủy bộ" hay còn gọi "lực iượng cơ động đường sông". Trong lịch sử quân đội Hoa Kỳ đây là lần thứ 2 quân đội Mỹ có mô hình tổ chức theo kiểu này. Hơn 200 năm trước đó, trong cuộc nội chiến Nam - Bắc đã từng có một tổ chức như vậy được tổ chức, làm nhiệm vụ tác chiến dọc các dòng sông ở Bắc Mỹ. Ngược dòng thời gian, người ta thấy được rằng, sư đoàn 9 là một đơn vị có nhiều kinh nghiệm trận mạc của quân đội Mỹ. Ra đời ngày 1-8-1940, không bao lâu sau đó, đơn vị này lập tức được tung ngay vào chiến trường Bắc Phi; sau đó tham gia cuộc đổ bộ vào eo biển Noóc-măng-đi của nước Pháp. Đánh giá về đoàn này, trong cuốn "Lực lượng lục quân Mỹ và quân đội Đồng minh"[1], Shenlly Stanton viết: "Sư đoàn 9 là khối hoàn chỉnh, không phụ thuộc vàocác căn cứ   yểm trợ cố định. Nó là một thực thể gồm những căn cứ lưu động trên sông".
Rõ ràng là khi đưa sư đoàn 9 đến hoạt động ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ vững tin và đặt rất nhiều kỳ vọng ở sức mạnh cũng như tính hiệu quả trong hoạt động tác chiến của ỉực lượng này. Ngay cả phái đoàn của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn khi đến thăm căn cứ Đồng Tâm cũng đã nhận xét rằng: "Quan niệm về chiến thuật của sư đoàn 9 tỏ ra rất thích hợp với cuộc chiến tranh tại Việt Nam, nhất là ở vùng 4 chiến thuật". Bởi theo họ, nhờ có lực lượng hùng hậu và phương tiện chiến tranh dồi dào, "lực ỉượng đặc nhiệm thủy bộ" có thể tham dự hành quân tại bất cứ khu vực nào thuộc vùng 4 chiến thuật. Thật vậy, để có thể hoạt động một cách có hiệu quả ở vùng đồng bằng sông nước, các phân đội thuộc "lực lượng đặc nhiệm thủy bộ" Mỹ khi đến Mỹ Tho đều được trang bị thuyền cao su (loại thuyền chở 3 người), binh lính được trang bị phao cá nhân (loại có 3 ngăn) và các loại giày đặc biệt (không ngấm nước hoặc ráo nước nhanh), các loại lựu đạn mini (nhỏ bằng 1/3 loại thông dụng nhưng sức công phá không kém). Điều này chứng tỏ trước khi đưa lực lượng đặc nhiệm thủy bộ vào đồng bằng sông Cửu Long, các chuyên gia quân sự Mỹ đã phân tích, tính toán rất kỹ yếu tố địa - quân sự ở chiến trường này để tìm ra các biện pháp đối phó thích hợp. Bên cạnh đó, để triển khai kế hoạch hoạt động của "lực lượng đặc nhiệm thủy bộ", Mỹ đã xây dựng ở Đồng Tâm một cụm tàu xung phong đường sông gồm:
52 chiếc LCM - 6 chở quân và thiết giáp.
5 chiếc LCM - 6 làm tàu chỉ huy truyền tin.
10 chiếc LCM - 6 làm tàu giám sát.
32 tàu tuần tra yểm trợ xung phong.
2 tàu tiếp dầu LCM - C.
Ngoài ra, còn có một lực lượng cứu nạn gồm 2 tàu vận tải 2.000 tấn, 2 tàu kéo VTB, 2 tàu đa năng LCU, 3 đốc nổi 100 tấn.
Tổ chức trang bị đã vậy, còn về hoạt động của "lực lượng thủy bộ đặc biệt" khi hành quân, nó thường phối hợp với các đơn vị khác thuộc lực lượng hải quân, lính thủy đánh bộ, đoàn 7 quân đội Sài Gòn trong các hoạt động trinh sát, ngăn chặn và truy kích. Phần lớn các cuộc hành quân của lực lượng này đều nhằm phục vụ cho chương trình "bình định nông thôn".
Với tổ chức mới, trang bị hiện đại và phù hợp với đặc điểm chiến trường đồng bằng sông nước; với chức năng hoạt động linh hoạt, lực lượng đặc nhiệm thủy bộ của sư đoàn 9 thoạt đầu đã có gây một số bất ngờ và khó khăn nhất định trong các cuộc chạm trán diễn ra năm 1967, dù trong các trận này bộ đội giải phóng cũng tiêu diệt được một số lực lượng của chúng: Cẩm Sơn (17- 5-1967); Bàn Long (12-9-1967); Long Khánh - Long Trung (13-7-1967)...
Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau, với quyết tâm và sự sáng tạo, quân dân các địa phương đồng bằng sông cửu Long đã tìm ra cách đánh có hiệu quả, làm thất bại hoạt động của lực lượng này. John Foribi trong cuốn "Lực ỉượng trên sông" (Rive rine) đã nhìn nhận khá xác đáng rằng, “Không phải lúc nào lực lượng nổi trên sông cũng đánh được theo kiểu của mình. Việt cộng chiến đấu trong các làng xã địa phương của họ. Họ biết từng thước các con sông, rạch quanh co uốn khúc, từng điểm phục kích, từng con đường rút lui... ". Quả thật, trước một đối thủ có tổ chức và hình thức tác chiến mới lạ thì những trận chống càn của quân dân các địa phương Cẩm Sơn, Long Tiên, Long Khánh, Long Trung đã giúp bộ đội giải phóng rất nhiều trong việc tìm hiểu kỹ hơn về đối phương, rút ra được nhiều kinh nghiệm tác chiến phù hợp, hiệu quả. Ngược lại, về phía quân Mỹ, những trận càn đó được coi như những bước thử nghiệm hình thức chiến thuật mới và thử thách bản lĩnh của binh lính Mỹ tại một chiến trường còn nhiều mới mẻ. Như vậy những cuộc càn diễn ra trong 7 tháng đầu năm 1967 dẫu sao cũng mới chỉ là một bước thăm dò, thử nghiệm. Vị thế của "lực lượng đặc nhiệm thủy bộ trên sông" cho đến thời điểm đó, trên thực tế, hầu như chưa được khẳng định là bao. Có lẽ chính vì vậy mà Bộ tham mưu quân Mỹ quyết định cùng một lúc mở 2 cuộc càn lớn vào Nam - Bắc lộ 4 để khẳng định uy lực; sức mạnh tính hiệu quả trong hoạt động tác chiến của lực lượng này, trong đó đáng chú ý là cuộc càn nhằm vào khu vực phía tây sông Ba Rài - nơi mà chúng cho là "đại bản doanh" của tiểu đoàn 263, một đối thủ tiềm tàng của chúng. Và như đã biết, cuộc đụng đầu quyết liệt trên dòng Ba Rài diễn ra chỉ trong vòng một ngày đêm. Trước sự chống trả mãnh liệt, khôn khéo của quân dân miền Nam Việt Nam, phía Mỹ đã phải trả giá quá đắt. Cái giá đó không chỉ ở những con số 13 tàu bị chìm, 8 lính Mỹ bỏ mạng cùng 113 lính bị thương, mà quan trọng hơn là ở chỗ, "một lượng tinh nhuệ với một chiến thuật được coi là "tân kỳ" nhấtt vừa mới ra đời đã bị giáng một đòn chí tử".
Nhận xét về trận đánh này, trong cuốn "lực lượng trên sông" Giôn Phobi viết: "Trong cuộc hành quân hồi tháng 9- 1967, Việt cộng tổ chức một trận phục kích dài 2 dặm dọc bờ sông Ba Rài. Sau 4 giờ đụng độ, một nửa đoàn tàu trúng đạn, 80 lính bị thương vong". Có thể nói, trận Ba Rài đã đánh dấu thời kỳ sa lầy của lực lượng đặc nhiệm thủy bộ Mỹ trong thế trận chiến tranh nhân dân ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung, Mỹ Tho nói riêng.
thể một phần do tổn thất về lực lượng và phương tiện chiến tranh đã dẫn lực lượng này của Mỹ lâm vào tình trạng trên nhưng căn nguyên chủ yếu là do lực lượng đó của quân Mỹ đã không phát huy được hiệu quả cho dù nó được tổ chức công phu và trang bị tốn kém. Sau thất bại này, lực lượng đặc nhiệm thủy bộ nằm trong thành phần sư đoàn 9 đã được đưa về Mỹ ngay trong đợt rút quân viễn chinh Mỹ khỏi chiến trường Việt Nam đầu tiên (8-7-1969).
"Lực lượng đặc biệt thủy bộ trên sông" là một hình thức tổ chức quân sự và "hạm đội nhỏ trên sông" là một hình thức chiến thuật mới trong chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ ở Việt Nam. Nó đã bị quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đánh bại và đã buộc phải rút khỏi vùng đồng bằng sông nước Cửu Long. Theo chúng tôi, trận Ba Rài đã mở đầu cho quá trình thất bại đó. Đáng tiếc là đã 35 năm qua kể từ trận đánh lịch sử này và 32 năm kể từ ngày quân Mỹ cuốn cờ rời Mỹ Tho, phía Việt Nam chưa có một công trình nào đi sâu tìm hiểu, mô tả, nghiên cứu, tổng kết đầy đủ về trận Ba Rài, thậm chí chưa có cả một tượng đài chiến thắng cho dù với quy mô khiêm tốn đi chăng nữa để ghi tạc chiến công của những người làm nên chiến thắng quan trọng này, trên mảnh đất Tiền Giang anh dũng, quật cường trong chiến đấu và bền bỉ, sáng tạo trong lao động dựng xây quê hương.
Một lần nữa xin đừng cho rằng trận Ba Rài chỉ diễn ra trong một ngày và tiếng tăm của nó không nổi lắm như trong ý nghĩ của những ai đó mà phải có cái nhìn khách quan, toàn diện hơn; phải thấy trận đánh này là trận đầu tiên đánh bại hoàn toàn chiến thuật "hạm đội nhỏ trên sông" của Mỹ và điều đó cũng có nghĩa là mở đầu cho việc đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ" được Mỹ triển khai ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung, Mỹ Tho nói riêng.
Một đội quân đã từng "bách chiến, bách thắng" ở chiến trường Bắc Phi, ở Pháp trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, khi đến Việt Nam đã phải nhanh chóng nếm mùi thất bại - mà lại thất bại cay đắng trong điều kiện được tổ chức hợp lý, trang bị tối tân hiện đại hơn, với biện pháp chiến thuật "tân kỳ hơn". Điều đó lẽ nào chưa đủ để tự hào về chiến thắng Ba Rài hay sao.





[1] Nxb. NeWa - Washington DC 1981

Trích Kỷ yếu hội thảo khoa học: Chiến thắng Ba Rài 15.9.1967, Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Tiền Giang, Tiền Giang, 2002.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!