PGS, TS. Hồ Khang
Sau một loạt hành
động chống phá và khiêu khích (nã pháo vào các đảo và một số vùng bờ biển miền
Bắc, bắt ngư dân, tung biệt kích, thám báo vào sâu trong nội địa, dựng lên sự
kiện vịnh Bắc Bộ, lấy cớ cho việc tăng cường và mở rộng chiến tranh...), từ năm
1965, đế quốc Mỹ sử dụng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc. Đây là một bộ phận khăng khít của chiến lược "chiến tranh cục bộ",
hỗ trợ cho hoạt động của lục quân Mỹ trên chiến trường miền Nam.
Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động lần thứ 11 (khoá III), tháng 3 năm
1965, đã quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang
thời chiến, nhằm bảo đảm cho miền Bắc có đủ sức mạnh đánh bại cuộc chiến tranh
phá hoại của không quân, hải quân Mỹ và làm tròn vai trò, nhiệm vụ của hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
Chuyển hướng về tư
tưởng và tổ chức, các cơ quan Đảng, Nhà nước và hệ thống chính quyền các cấp gấp
rút chấn chỉnh, sắp xếp, kiện toàn về tổ chức; sửa đổi lề lối, tác phong làm
việc, thực hiện đúng chức năng, giản tiện hoá các thủ tục hành chính, kịp thời
giải quyết các vấn đề của cuộc sống và chiến đấu đặt ra. Chuyển hướng về kinh
tế, miền Bắc tập trung xây dựng kinh tế vùng, kinh tế địa phương; thúc đẩy khu
vực này phát triển nhanh hơn tốc độ bình thường, làm cho mỗi vùng, miền phát
huy đầy đủ tiềm năng và khả năng hiện có, ổn định và giữ vững đời sống của nhân
dân, đáp ứng hậu cần tại chỗ của cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không và đất
đối biển. Nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang ba thứ quân cũng nhanh
chóng được tăng cường. Nhà nước quyết định thành lập một số binh đoàn chủ lực
trang bị hiện đại và một số quân chủng mới. Quốc hội khoá III, kỳ họp thứ hai
thông qua Luật sửa đổi và bổ sung
Luật nghĩa vụ quân sự, kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của quân nhân theo yêu
cầu, nhiệm vụ chiến đấu. Tháng 5 năm 1965, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh động viên
một bộ phận sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, binh sĩ dự bị và một bộ phận công
dân thuộc ngành dự bị vào lực lượng vũ trang. Hội đồng Chính phủ chịu trách
nhiệm đặt kế hoạch động viên cục bộ và chỉ đạo quá trình thực hiện kế hoạch này
theo phương hướng tăng cường khả năng quốc phòng miền Bắc đến mức cần thiết,
đáp ứng yêu cầu của chiến trường, bảo đảm sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh
tế hậu phương thời chiến.
Từ khắp nơi trên miền
Bắc, các phong trào "ba sẵn
sàng", "ba đảm đang", "cử người đi đánh Mỹ",
"thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người"... dấy lên
mạnh mẽ, sôi nổi và rộng khắp ở mọi địa phương. Năm 1965, gần 290.000 thanh
niên tình nguyện gia nhập quân đội. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, 68.874
thanh niên và quân nhân chuyển ngành hoặc phục viên được tuyển vào quân đội,
hàng chục nghìn người khác được gọi vào thanh niên xung phong, dân công hoả
tuyến. So với đầu năm, đến cuối năm 1965, khối bộ đội chủ lực miền Bắc tăng gấp
hai lần – từ 195.000 quân lên 400.000 quân. Các binh chủng, quân chủng cũng
tăng nhanh về lực lượng, tăng cường về vũ khí trang bị. Đến cuối năm 1965, quân
số các quân chủng, binh chủng tăng gấp 3 lần so với năm 1964, riêng Quân chủng
Phòng không - Không quân, nhiều đơn vị được gấp rút xây dựng, trong đó có các
đơn vị tên lửa phòng không, pháo phòng không, ra-đa cảnh giới, không quân tiêm
kích. Bên cạnh lực lượng bộ đội phòng không chủ lực, lực lượng bộ đội phòng
không các địa phương cũng phát triển với tốc độ nhanh, tổ chức thành nhiều tiểu
đoàn, nhiều đại đội; dân quân, tự vệ hình thành hàng nghìn đơn vị trực chiến.
Dân quân, tự vệ là lực lượng nòng cốt phát triển phong trào toàn dân bắn máy
bay và tàu chiến Mỹ, làm công tác phòng không nhân dân, bảo đảm giao thông vận
tải, bảo vệ trị an, xung kích trong sản xuất ở những địa bàn đối phương thường
xuyên đánh phá ác liệt... Vùng ven biển, lực lượng phòng thủ bao gồm các đơn vị
bờ đối biển của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ nhanh
chóng được tăng cường. Ngoài ra, ở các làng xã vùng ven biển, hàng trăm đội
tuần tra được tổ chức, tăng cường canh gác, kịp thời phát hiện và đập tan mọi
hành động đột nhập, phá hoại của biệt kích, thám báo. Các lực lượng vận tải và
bảo đảm giao thông như công binh, vận tải quân sự, vận tải nhà nước, vận tải
nhân dân..., theo nhịp độ gia tăng của cuộc chiến tranh cũng ngày càng lớn
mạnh. Trên tuyến đường vận tải Trường Sơn, lực lượng vận tải quân sự phát triển
thành đoàn hậu cần chiến lược, bảo đảm việc đối phó với đối phương, mở đường,
vận chuyển và bảo đảm hành quân chi viện chiến trường.
Với quyết tâm cao, cơ
cấu tổ chức, bố trí lực lượng và thế trận hợp lý; với vũ khí trang thiết bị,
phương tiện bảo đảm ngày càng được cải tiến và tăng cường; với nghị lực và sức
sáng tạo được phát huy cao độ của con người Việt Nam, lực lượng phòng không,
lực lượng phòng thủ biển và lực lượng bảo đảm giao thông vận tải ba thứ quân ở
miền Bắc thực sự là nòng cốt phát động toàn dân tham gia chống chiến tranh phá
hoại. Vì vậy, suốt những năm chiến tranh, phong trào toàn dân bắn máy bay, tàu
chiến Mỹ bằng mọi thứ vũ khí, ở mọi nơi và trong mọi lúc phát triển rộng khắp
các địa phương. Tự vệ các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, công trình; dân quân các
bản làng, xóm thôn đều tổ chức các tổ bắn máy bay để vừa sản xuất, vừa chiến
đấu. Khắp nơi các khẩu hiệu "Tay
cày, tay súng", "Tay búa
tay súng" trở thành phương châm hành động của giai cấp công nhân và
nông dân...
Bên cạnh phong trào
bắn máy bay và tàu chiến Mỹ, các địa phương còn phát động phong trào toàn dân
tham gia bảo đảm giao thông vận tải, toàn dân giúp đỡ bộ đội, phục vụ chiến
đấu, toàn dân làm công tác phòng không. Các đội thuyền nan, bè, mảng, xe thồ
của nhân dân với phương thức vận tải thô sơ nhưng phù hợp, ngày đêm bền bỉ vận
chuyển hàng hoá qua những vùng trọng điểm đối phương thường xuyên đánh phá. Chỉ
riêng việc phục vụ chiến đấu như tiếp đạn, kéo pháo, đào đắp công sự, cứu chữa
và chăm sóc thương binh..., những năm tháng chống chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ, nhân dân miền Bắc đã đóng góp hàng triệu ngày công. Tính ra mỗi ngày,
trên miền Bắc, có tới 92.000 lao động theo nghĩa vụ thời chiến chiếm tới 10,5%
số nhân khẩu trong độ tuổi lao động của miền Bắc tham gia chiến đấu và phục vụ
chiến đấu. Trong điều kiện miền Bắc phải liên tục động viên thanh niên vào lực
lượng vũ trang, vào thanh niên xung phong; trên ruộng đồng, trong nhà máy, lao
động nữ là chủ yếu. Những con số trên phản ánh những nỗ lực cao độ của hậu
phương lớn, chứng tỏ sự tham gia tích cực, rộng rãi và hiệu quả của nhân dân,
tạo ra lực lượng vật chất và tinh thần to lớn, góp phần quan trọng bảo đảm cho
miền Bắc có đủ sức mạnh đương đầu, đánh trả liên tục và có hiệu quả nhiều thủ
đoạn đánh phá, vô hiệu hoá nhiều loại vũ khí hiện đại của đế quốc Mỹ...
Vì thế, dù chiến
tranh diễn ra ngày càng khốc liệt, tác động lên toàn bộ đời sống văn hoá, kinh
tế, xã hội... nhưng miền Bắc vẫn vững vàng trong lửa đạn, ngẩng cao đầu đánh
Mỹ, trừng trị đích đáng lực lượng không quân và hải quân Hoa Kỳ trên bầu trời
và vùng biển. Trong bốn năm, lưới lửa phòng không miền Bắc bắn rơi 3.243 máy
bay (trong đó có cả máy bay B.52 và F.111), bắn cháy, bắn chìm 143 tàu chiến
Mỹ. Sản xuất, về cơ bản không bị ngừng trệ mà tiếp tục được duy trì, hơn nữa
trên một số mặt như năng suất lúa, kinh tế địa phương... còn có bước phát
triển. Đời sống nhân dân, kể cả vùng tuyến lửa Khu 4, không bị đảo lộn lớn.
Dưới bom đạn đánh phá của Mỹ, học sinh vẫn mũ rơm đội đầu đến trường, ngày đêm
lên lớp. Gian khổ, thiếu thốn, mất mát, hy sinh, nhưng phong trào "Tiếng hát át tiếng bom" xuất hiện
và phát triển khắp nơi trên mọi nẻo đường chống chiến tranh. Giữa những ngày đế
quốc Mỹ leo thang đánh phá, nhân dân Việt Nam vẫn tổ chức trọng thể lễ mít tinh
200 năm ngày sinh của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đó là biểu hiện về trình
độ của một dân tộc văn minh, chứng tỏ tư thế của hậu phương lớn miền Bắc thời
đánh Mỹ. Trên mặt trận bảo đảm giao thông, mặc dù toàn bộ hệ thống đường bộ,
đường sắt, đường thủy, cầu cống, bến cảng, kho tàng thường xuyên bị đánh phá, bị
uy hiếp nhưng nhịp độ và khối lượng vận
chuyển vẫn không ngừng tăng lên, đáp ứng kịp thời, liên tục và ngày càng đầy đủ
yêu cầu của cuộc chiến đấu trên hai miền Nam, Bắc.
Leo thang đánh phá
miền Bắc, mục tiêu hàng đầu của đế quốc Mỹ là uy hiếp tinh thần kháng chiến của
nhân dân Việt Nam. Thế nhưng, trải qua bốn năm chống chiến tranh phá hoại, quân
và dân miền Bắc đã đoàn kết một lòng, giáng trả đích đáng không quân, hải quân
Mỹ, gây cho đối phương những tổn hao nặng nề về người lái và máy bay, tàu
chiến; làm suy giảm ý chí xâm lược của giới lãnh đạo cao cấp Mỹ trong cuộc
chiến tranh cục bộ. Thắng lợi đó chứng tỏ trên thực tế sức mạnh và tính bền
vững của một hậu phương được tổ chức chặt chẽ do chế độ ưu việt được thiết lập
và củng cố vững chắc, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân không ngừng được chăm
lo, mở rộng và tăng cường, nhằm mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Trong khi đó, chính nước Mỹ bên kia bờ đại dương lại bị rung
động, nội bộ chia rẽ bởi những thất bại ngày càng nặng trong cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam. Điều đó, chứng tỏ một dân tộc chiến đấu vì sự nghiệp chính
nghĩa, toàn dân đoàn kết, xây dựng hậu phương chiến lược vững mạnh, tiền tuyến
kiên cường, bền lòng kháng chiến, thì nhất định chiến thắng các lực lượng xâm
lược.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!