Thứ Hai, 10 tháng 2, 2014

VIỆT NAM ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ THỰC HIỆN SÁCH LƯỢC “ĐÁNH – ĐÀM” (1967-1972)



PGS.TS. Hồ Khang
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
Trong chiến tranh, quan hệ giữa quân sự và ngoại giao luôn là mối quan hệ chặt chẽ, quy định và chi phối lẫn nhau. Trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, quan hệ giữa giành thắng lợi quyết định trên chiến trường và củng cố, mở rộng thắng lợi đó bằng hoạt động ngoại giao thể hiện đậm nét qua thế đánh- đàm – một trong những sách lược tiến hành chiến tranh độc đáo đạt tới tầm nghệ thuật. Tuy nhiên, trước những phức tạp của bàn cờ chính trị thế giới tác động trực tiếp tới chiến tranh Việt Nam, bộ não lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã phải hết sức mềm dẻo, khéo léo, kiên quyết và bản lĩnh để thực hiện sách lược “vừa đánh, vừa đàm”.

1. Bước ngoặt của cuộc kháng chiến và sách lược đánh - đàm
Sau “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn khốc liệt. Dựa vào ưu thế quân sự của cường quốc, Mỹ tuyên bố: “Đẩy lùi miền Bắc Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá”.  Ngày 7-2-1965, Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc với mục đích ngăn chặn chi viện của miền Bắc cho miền Nam, cho Việt Nam thấy sức mạnh quân sự của Mỹ, gây sức ép để Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ký thỏa thuận với Chính quyền Việt Nam Cộng hòa; hy vọng cuộc ném bom miền Bắc Việt Nam sẽ trở thành liều thuốc giữ ổn định tinh thần cho Chính quyền Sài Gòn, nâng cao hiệu quả chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng hoà.
Trong hai năm 1965-1966, dù cố gắng tăng cường lực lượng, đẩy mạnh các hoạt động quân sự trên nhiều hướng chiến trường khác nhau, song Mỹ và quân đội Sài Gòn đã vấp phải những thảm bại to lớn: Cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, lần thứ hai lần lượt bị thua đau, chiến tranh phá hoại miền Bắc vấp phải sự giáng trả kiên cường, thất bại trên những âm mưu cơ bản[1]. Thắng lợi những năm 1965-1966 không chỉ đơn thuần là những thắng lợi về chiến thuật, chiến lược quân sự, mà còn là những thắng lợi chính trị to lớn và ý nghĩa, tác động kép của những chiến thắng ấy đã tạo nên bước ngoặt của cách mạng miền Nam, hình thành những tiền đề cơ bản, vững chắc cho bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.
Phân tích, nắm bắt tình hình, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 13 (1-1967) chỉ rõ trước đó chưa thể thực hiện sách lược “đánh – đàm”, vì chưa có thời cơ, vì Mỹ còn tin rằng, nếu ồ ạt đưa quân quân vào miền Nam tham chiến thì có thể giành thắng lợi. Tuy nhiên, bước sang năm 1967, tình hình đã căn bản khác trước, trở nên thuận lợi và chín muồi cho một trận đấu trí, đấu lực mới. Thắng lợi đối với hiệp đầu của chiến lược chiến tranh cục bộ khiến Mỹ bị một đòn phủ đầu choáng váng, hết sức bất ngờ, phải đối diện với ba khó khăn lớn: 1-Rơi vào thế bị động quân sự trên chiến trường, lúng túng về chiến lược; 2-Vấp phải những khó khăn to lớn trong nội bộ, xu hướng sớm muốn chấm dứt chiến tranh lan rộng; 3- Bị cô lập và lên án trên thế giới. Tình hình đó là hoàn toàn bất lợi đối với Mỹ trước thềm cuộc bầu cử Tổng thống năm 1968.
 Trước những biến chuyển có lợi, chủ trương phát huy thế mạnh, thế thắng, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 quyết định mở mặt trận ngoại giao, kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, hình thành thế chiến lược tiến công. Xác định “đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao”[2], Hội nghị Trung ương lần thứ 13 chủ trương phối hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch về chính trị, vận dụng sách lược vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh. Hội nghị giải thích: “Vận dụng sách lược vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh có nghĩa là trong khi ở miền Nam vẫn tranh thủ đánh để giành thắng lợi quyết định thì giữa ta và địch có thể nói chuyện từ hình thức tiếp xúc cho đến hội đàm”[3]. Đây là một quá trình đấu tranh hết sức phức tạp, gay go, khó khăn, gắn chặt với các mặt đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao. Do vậy, để thực hiện thành công sách lược “đánh – đàm” đòi hỏi phải giữ vững tính nguyên tắc, song phải biết cơ động, linh hoạt, lợi dụng mọi "kẽ hở" của đối phương; đồng thời, giữ vững độc lập, tự chủ.
Chọn đúng thời cơ để mở đòn tiến công ngoại giao, kéo Mỹ vào bàn đàm phán khi đang ở thế thắng, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-1967) đã đưa ngoại giao trở thành thành một mặt trận tích cực, chủ động, đan quyện hai mặt đánh – đàm, nhằm  vào chỗ yếu cơ bản về chính trị của đối phương để giành thắng lợi từng bước, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định.
2. Chủ động, độc lập khởi đầu thế đánh - đàm
Đương đầu với một đối phương có tiềm lực, sức mạnh kinh tế, quân sự vượt trội, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định sự ủng hộ quốc tế, nhất là sự ủng hộ của các nước XHCN là vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết. Trong mỗi bước phát triển của cuộc kháng chiến, chủ động, độc lập trong hoạch định chủ trương, chính sách, song Đảng, Nhà nước Việt Nam rất chú ý tham khảo ý kiến các nước anh em[4]. Về ngoại giao, ngay khi Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-1967) kết thúc, Việt Nam tích cực đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại  nhằm làm cho các nước anh em, trước hết là Liên Xô,Trung Quốc hiểu, đi đến ủng hộ sách lược đánh – đàm của Việt Nam.
Đối với Trung Quốc, nếu như trước năm 1964, Trung Quốc “hướng tới xây dựng môi trường quốc tế hòa bình cho phát triển kinh tế bằng cách ủng hộ Bắc Triều Tiên, Bắc Việt Nam đấu tranh chính trị là chủ yếu và tránh chiến tranh với Hoa Kỳ trong khu vực Đông Nam Á[5], thì từ năm 1964 trở đi, Trung Quốc ủng hộ Việt Nam đẩy mạnh đấu tranh vũ trang chống Mỹ. Vì thế, sách lược “đánh – đàm” của Việt Nam gặp phải phản ứng không thuận từ phía Trung Quốc. Trong cuộc hội đàm giữa hai đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam, Trung Quốc tại Bắc Kinh (17-2-1967), sau khi phê phán sách lược “đánh –đàm”, Thủ tướng Chu Ân Lai cho rằng có bốn hậu quả khi thực hiện “đánh – đàm”: 1- Gây hiểu lầm về giải quyết tách rời vấn đề miền Bắc và miền Nam; 2- Làm cho nhân dân có ảo tưởng hòa bình; 3- Gây hiểu lầm miền Bắc bán rẻ miền Nam; 4- Các nước xét lại gây áp lực đàm phán đối với Việt Nam[6]. Trước tình hình đó, tránh để Trung Quốc nghi ngờ Việt Nam thương lượng non, nhằm giải thích, thuyết phục các nước anh em, tránh không để đối phương lợi dụng bất đồng về sách lược giữa Việt Nam với bạn bè, đồng minh, trong cuộc hội kiến với Chu Ân Lai (4-1967), Thủ tướng Phạm Văn Đồng, một mặt, khẳng định quan điểm không thay đổi “trên cơ sở thắng lợi của đấu tranh quân sự, chính trị tiến hành đấu tranh ngoại giao với thế chủ động, thế tiến công”[7], “trước mắt đòi Mỹ phải đình chỉ vĩnh viễn và vô điều kiện việc ném bom, bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”[8] của Việt Nam; mặt khác, giải thích rõ thêm rằng, trên thực tế dư luận quốc tế có những biểu hiện ủng hộ Việt Nam; Việt Nam nhận thức đầy đủ Mỹ chưa muốn ngồi nói chuyện với Việt Nam, chắc chắn sắp tới sẽ đánh mạnh, hiểu rõ những thủ đoạn cực kỳ ngoan cố, xảo quyệt của Mỹ và hoàn toàn “không có chút ảo tưởng nào, mà trái lại sẵn sàng đánh, đánh mạnh hơn”[9].
Về phía Liên Xô, quan điểm về “đánh – đàm” có phần trái ngược với Trung Quốc. Ngay từ năm 1965, Liên Xô đã khuyến khích Việt Nam tiếp xúc với phía Mỹ để đi đến một giải pháp ở Việt Nam, “duy trì vĩ tuyến 17 như là một đường ranh giới"[10], chủ trương giải quyết vấn đề Việt Nam bằng thương lượng trên những điều kiện thấp so với yêu cầu của Việt Nam. Liên Xô truyền đạt ý kiến của Mỹ cho Việt Nam về đàm phán và để đạt mục đích, Liên Xô điều hòa lượng cung cấp hàng viện trợ cho Việt Nam[11]. Trong cuộc hội đàm cấp cao với đoàn đại biểu Việt Nam (3-1967), Liên Xô đề nghị Việt Nam không nên yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện: “Mỹ khó nhận việc chấm dứt ném bom không điều kiện, nêu ra không có ích gì, chỉ cản trở thương lượng...”[12], gợi ý “có thể chấp nhận xuống thang về hình thức để đánh lừa Mỹ”[13]. Nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, ngăn chặn tính toán làm trung gian, gây thêm tình hình phức tạp[14], các chuyến thăm con thoi của các đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ Việt Nam liên tục tới Liên Xô, khẳng định quan điểm, kiên trì giải thích, thuyết phục.
Để phát huy hiệu quả sách lược “đánh - đàm”, về quân sự, điều cần thiết đối với cách mạng miền Nam lúc này là phải tổ chức được những đợt hoạt động, những cuộc tiến công quy mô chiến lược đủ sức làm xoay chuyển cục diện chiến trường, giáng một đòn vào ý chí xâm lược của Mỹ, kéo Mỹ xuống thang chiến tranh, tạo điều kiện để đấu tranh ngoại giao thực hiện hai mục tiêu chủ yếu: Buộc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc, rút quân khỏi miền Nam[15]. Thực hiện mục tiêu nêu trên, kế hoạch chiến lược Đông – Xuân 1966-1967 được khởi thảo với điểm cốt lõi: Giành thắng lợi quyết định không phải “bằng cách đánh thông thường mà phải tìm cách đánh khác để đập tan ý chí tiếp tục chiến tranh của Mỹ, làm cho Mỹ hiểu rằng không thể thắng được dân tộc Việt Nam bằng vũ khí và bom đạn”[16]. Sau những bàn bạc, tính toán, cân nhắc, phương thức tiến công mới, táo bạo bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam được lựa chọn. Để đảm bảo hiệu lực chiến đấu, toàn bộ ý định chiến lược được giữ bí mật nghiêm ngặt[17]. Tháng 1-1968, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 14 quyết định thực hiện Tổng công kích- Tổng khởi nghĩa, chính thức mở ra trên thực tế một giai đoạn mới vừa đánh vừa đàm, phù hợp với truyền thống quân sự Việt Nam.
Đêm ngày 29 rạng ngày 30 -1-1968 (tức là đêm giao thừa theo lịch miền Nam), cả miền Nam rung chuyển bởi đòn tiến công quân sự mãnh liệt và bất ngờ. Sự kiện “Tết” đã khiến nước Mỹ bàng hoàng sửng sốt. Nếu như năm 1967, Mỹ vẫn mưu toan "đàm phán trên thế mạnh", đòi miền Bắc phải "giảm hoạt động quân sự ở miền Nam, giảm thâm nhập vào miền Nam", đưa ra công thức thương lượng "có đi, có lại"..., thì thắng lợi của Tổng tiến công Mậu Thân đã buộc Tổng thống Mỹ L.Johnson, vào đêm 31-3-1968, chẳng những đã phải công khai tuyên bố: Mỹ đơn phương chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc (từ vĩ tuyến 20 trở ra), sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Chính phủ Việt Nam DCCH, mà hơn thế, còn quyết định rút dần quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam khi chưa một mục tiêu nào của cuộc chiến tranh này được thực hiện. Tuy nhiên, phía Hoa Kỳ chưa đáp ứng hoàn toàn những điều kiện do Việt Nam nêu ra, nên đàm phán ngay là quá sớm, song không thể bỏ lỡ cơ hội đàm phán. Cân nhắc, phân tích tình hình, ngày 3-4-1968, Chính phủ Việt Nam DCCH ra tuyên bố: “Sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hoạt động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện”[18].
Về phía quốc tế, Trung Quốc đánh giá Tuyên bố 3-4-1968 của Việt Nam là “đã nhân nhượng một phần, giải cứu khó khăn cho Mỹ (…) tuyên bố vội vã và quá nhanh”[19], “các đồng chí Việt Nam dễ nhân nhượng (…) không phải các đồng chí chủ động thêm mà là mất thêm chủ động”[20]. Đáp lại, Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Các đồng chí góp ý kiến theo tinh thần nghiêm chỉnh, chúng tôi sẽ chú ý. Nhưng cuối cùng chúng tôi là những người đánh Mỹ và thắng Mỹ. Chúng tôi trực tiếp trên mặt trận quân sự cũng như ngoại giao”[21].
Liên Xô có quan điểm ngược lại: “Cố nhiên Mỹ không thể chấm dứt 100% việc bắn phá miền Bắc (…) nếu các đồng chí một mực nói: các anh phải chấm dứt toàn bộ và không có điều kiện việc đánh phá miền Bắc, còn chúng tôi sẽ không nhượng bộ gì cả, thì là tối hậu thư. Mà thực sự muốn có đàm phán thì không bên nào được có giọng tối hậu thư...[22]”. Nhìn chung, Liên Xô “chủ trương giải quyết vấn đề ngừng ném bom miền Bắc trước, vấn đề miền Nam sau, giải quyết vấn đề quân sự ở miền Nam trước, vấn đề chính trị sau”[23], có nghĩa là mong muốn Việt Nam nhượng bộ, nhanh chóng sớm kết thúc chiến tranh, giữ nguyên hiện trạng hai miền. Đại sứ Liên Xô tại Việt Nam S. Sherbakov đã gửi báo cáo về Moscow, phân tích thái độ không ủng hộ đàm phán của Trung Quốc, nhận định rằng,“ một giải pháp cho cuộc chiến Việt Nam sẽ giáng một đòn mạnh vào chiến lược quân sự "trường kỳ kháng chiến" của Mao và có thể dẫn đến làm suy sụp các tư tưởng khác của Người cầm lái vĩ đại"[24] và về mặt chiến lược, “cuộc chiến tranh ở Việt Nam sẽ làm suy yếu cả Mỹ và Liên Xô, làm tăng cơ hội đối đầu quân sự trực tiếp giữa hai đối thủ chính của Trung Quốc”[25].
Trước những bất đồng quan điểm của các nước đồng minh chủ chốt, Việt Nam kiên định đi tới bàn đàm phán với những mục tiêu, yêu cầu được cân nhắc, xác định.
Bước vào đàm phán, buộc phải coi Việt Nam DCCH là một bên đối thoại trực tiếp, bình đẳng, miễn cưỡng chấp nhận thương lượng để tìm một lối thoát danh dự, song Mỹ vẫn đàm phán trên tư thế của kẻ mạnh, dồn mọi nỗ lực, mở hàng loạt các cuộc hành quân quy mô lớn, áp dụng nhiều biện pháp, ra sức tuyên truyền trên trường quốc tế về thắng lợi quân sự của Mỹ và đồng minh ở Việt Nam sau Tết Mậu Thân, sử dụng ồ ạt bom đạn và chất độc… hòng giành thêm những lợi thế mới[26]. Việc Mỹ đặt điều kiện cho Việt Nam về chấm dứt ném bom hoàn toàn miền Bắc[27] cho thấy: “Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường”[28]. Trên tinh thần đó, tháng 5-1968, Bộ Chính trị quyết định bồi tiếp đòn tiến công mới, giáng mạnh vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, gây cho Mỹ những tổn thất nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh, làm cho đối phương “thất bại trên chiến trường, thất bại ở các thành thị lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ”[29], thúc đẩy tiến trình trên bàn đàm phán Hội nghị Paris.
3. Tự chủ, vững vàng tiếp tục thế đánh - đàm
Đầu năm 1969, Hội nghị Paris bước vào giai đoạn hai - giai đoạn đàm phán bốn bên, đàm phán vẫn chưa đi vào thực chất, thế trận vừa đánh, vừa đàm triển khai mới được hơn một năm, nửa cuối năm 1969, trên chiến trường miền Nam, quân đội Việt Nam DCCH gặp một số khó khăn. Nhân cơ hội đó, một mặt, Mỹ thực hiện chính sách “tiến công hòa bình” với quy mô chưa từng có trong hoạt động ngoại giao của nước Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, lôi kéo sự tham gia của các nước Tây Âu, Bắc Âu, châu Phi, châu Á, một số nước XHCN, các nước Không liên kết… làm trung gian trong vấn đề Việt Nam; mặt khác, tích cực tìm kiếm thắng lợi trên chiến trường. Với chiến lược đó, Mỹ liên tục giằng dai trên bàn Hội nghị Paris, gây nên những bế tắc về ngoại giao trong suốt những năm 1968-1970.
Phân tích tình hình mọi mặt, đặc biệt phân tích những diễn biến mới nhất, cũng như ý đồ của Mỹ và Chính quyền Sài Gòn, Hội nghị Trung ương lần thứ 18 (27-1-1970) nhận định rằng, Mỹ vẫn đang cố tình hạ thấp Hội nghị Paris, đưa ra đề nghị hòa bình để đánh lừa dư luận. Quả thật, cuộc đàm phán Paris chưa đi vào thực chất, Mỹ vẫn muốn vớt vát để đàm phán trên thế mạnh và kết thúc chiến tranh theo chiều hướng có lợi. Xác định chỉ khi Mỹ “vấp phải thất bại nghiêm trọng hơn, hết hy vọng vào âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh” thì chúng mới buộc phải đi vào con đường thương lượng nghiêm chỉnh để tìm một giải pháp chính trị”[30], đầu năm 1971, Trung ương Đảng hạ quyết tâm: “Ta phải đánh cho quân Mỹ bị thua đau hơn nữa, đánh cho ngụy quân, ngụy quyền phải sụp đổ”[31]. Phân tích so sánh lực lượng, tình hình chiến trường, Trung ương Đảng nhận định: Cục diện mới trên chiến trường đã đem đến thời cơ lớn - thời cơ chiến lược, cho phép đẩy mạnh nỗ lực chủ quan, giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Thay mặt Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Lê Duẩn hạ quyết tâm: “Nắm lấy thời cơ lớn, quật địch những đòn quyết liệt hơn nữa, làm cho ngụy quân, ngụy quyền suy sụp, bắt Mỹ phải chịu thua và rút hết quân về nước[32].
Biến quyết tâm thành hành động, những năm 1971-1972, quân và dân Việt Nam mở các đợt hoạt động quân sự mạnh mẽ, đánh bại các cuộc hành quân, càn quét của Mỹ và quân đội Sài Gòn sang Campuchia, Nam Lào. Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 với ba chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng trên ba hướng Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, hai chiến dịch tổng hợp ở Bắc Bình Định và đồng bằng Nam Bộ đã tác động trực tiếp đến cục diện cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán Hội nghị Paris đang ở thế giằng co. Tin tức thắng lợi từ chiến trường liên tục dội đến bàn đàm phán. Thất bại nặng nề của quân đội Sài Gòn dưới sự yểm trợ hùng hậu của hỏa lực Mỹ, phương tiện chiến tranh Mỹ, cố vấn Mỹ “đã làm rung chuyển nước Mỹ, gây ra cho chúng những khó khăn rất lớn về nhiều mặt”[33]. Để tạo ra “khả năng kéo Mỹ xuống nữa để thắng một bước căn bản tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc cách mạng miền Nam”[34], “làm áp lực mạnh hơn buộc chính quyền Mỹ phải từ bỏ xâm lược, chấm dứt chiến tranh”[35], trước khi mở đợt tấn công ngoại giao, kéo Mỹ đi vào quỹ đạo đàm phán một cách thực chất, Việt Nam tích cực tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc.
Trong cuộc hội đàm với Lê Duẩn tại Bắc Kinh (11-5-1970), Mao Trạch Đông tuy có tuyên bố ủng hộ sách lược đánh đàm của Việt Nam: “Các đồng chí có thể đàm phán với Mỹ”[36], song nhấn mạnh rằng, “sức mạnh quyết định vẫn là ở quân sự”[37]. Mao Trạch Đông lấy ví dụ Hiệp định Geneve bị phá hoại để minh chứng đàm phán không phải là yếu tố quyết định cục diện cuộc chiến. Như vậy, dù không phản đối Việt Nam đàm phán, song Trung Quốc chưa “tâm phục khẩu phục”, ủng hộ đàm phán một cách thực sự. Vì vậy, thay mặt Đảng, Chính phủ Việt Nam, Lê Duẩn giải thích: “Đấu tranh chính trị và quân sự có tầm quan trọng quyết định, tuy nhiên, thực tiễn Việt Nam, ở một mức độ nhất định đã chứng minh đấu tranh ngoại giao có hiệu quả trong nhiều năm qua (…) chúng tôi sẽ kiên trì trong cuộc đấu tranh quân sự, chính trị, coi đó là yếu tố quyết định chiến thắng, song khi tình hình cho phép, cần đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao”[38]. Cũng ghi nhận rằng, đến cuối năm 1970, quan điểm của Trung Quốc về vấn đề “đánh – đàm” đã có sự thay đổi mang tính bước ngoặt. Tiếp Thủ tướng Phạm Văn Đồng (23-9-1970), Mao Trạch Đông phát biểu: “Chúng tôi đã thấy là các đồng chí có thể tiến hành đấu tranh ngoại giao và làm rất tốt. Cuộc đàm phán đã diễn ra hai năm, lúc đầu chúng tôi có lo lắng. Lo các đồng chí bị mắc kẹt. Bây giờ thì không còn lo lắng nữa”[39]. Trong cuộc hội đàm với Lê Đức Thọ (12-7-1972), Thủ tướng Chu Ân Lai thừa nhận: “Khi các đồng chí bắt đầu đàm phán, một số đồng chí của chúng tôi đã nghĩ các đồng chí chọn sai thời điểm. Thậm chí tôi cũng từng nhắc nhở đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Phạm Văn Đồng phải chọn thời điểm đàm phán khi đang ở thế mạnh (…) tuy nhiên, đến giờ chúng tôi hiểu quyết định đàm phán của các đồng chí vào thời điểm ấy là đúng”[40].
Về phía Liên Xô, sau khi đạt mục tiêu thuyết phục Việt Nam đàm phán và do bận đối phó với khủng hoảng ở Tiệp Khắc, nên từ cuối tháng 8-1968 đã giảm bớt sự can dự vào tiến trình đàm phán. Sau khi sự kiện Tiệp Khắc dẹp yên, Mỹ thúc giục Liên Xô gây sức ép đối với Việt Nam, “làm cho Bắc Việt Nam nhận thấy rõ ràng họ đang bám giữ một lập trường không thực tế và hoàn toàn vô lý đối với việc ngăn cản chế độ Sài Gòn tham gia quá trình đàm phán"[41]. Bị thúc ép bởi yêu cầu cải thiện quan hệ với Mỹ, Liên Xô thuyết phục Việt Nam hạ thấp điều kiện đàm phán. Tháng 3-1970, khi tình hình Campuchia căng thẳng, Liên Xô đã hai lần yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Tháng 4-1972, Liên Xô gợi ý Việt Nam gây sức ép “buộc Mỹ phải rút hết trước bầu cử Tổng thống Mỹ, còn các vấn đề chính trị, tiếp tục đấu tranh đòi giải quyết theo lập trường của ta”[42]. Do vậy, tháng 5-1972, Lê Duẩn dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao tới Moscow “để giải thích các kế hoạch mới với Đảng Cộng sản Liên Xô”[43] – kế hoạch vừa đàm phán, vừa đánh mạnh trước thềm cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ cuối năm 1972: “Chúng tôi sẽ đánh bại Nixon như đã đánh bại Johnson”[44]. Đoàn đại biểu Việt Nam cũng nói rõ quan điểm đối với việc Nixon thăm Liên Xô, “vạch rõ kế hoạch hòa hoãn và ngoan cố của Nixon, khẳng định lại lập trường của ta tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên Xô, mong muốn Liên Xô cùng ta thắng Mỹ”[45].
Cho đến trước cuộc tiến công Xuân - Hè 1972, cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán Hội nghị Paris giữa Việt Nam và Mỹ tiếp tục diễn ra căng thẳng, quyết liệt, nhưng hầu như không có tiến triển. Trước những bước chuyển biến chậm chạp trên bàn đàm phán, trong khi các cuộc phiêu lưu quân sự trên chiến trường Đông Dương có nguy cơ thất bại hoàn toàn và dư luận Mỹ đang lên án mạnh mẽ chính quyền R.Nixon, Tổng thống R. Nixon đã tìm kiếm khả năng đối phó thông qua việc chia rẽ Việt Nam với các đồng minh chiến lược, thực hiện chiến dịch ngoại giao con thoi với Trung Quốc, Liên Xô, nhằm “phá vỡ mối quan hệ với Hà Nội và hai cường quốc cộng sản; đồng thời, lợi dụng sự chia rẽ giữa Moscow và Bắc Kinh để giúp ông ta (Nixon) chấm dứt cuộc chiến tranh ở Đông Dương thông qua thương lượng về một giải pháp tại Paris”[46]. Sau chuyến thăm chính thức Bắc Kinh, ngày 21-3-1972, Tổng thống R.Nixon đơn phương “ngừng không thời hạn” Hội nghị Paris, cáo buộc hai Đoàn Việt Nam gây bế tắc, không thương lượng nghiêm chỉnhtuyên bố tiến hành ném bom miền Bắc trở lại với quy mô chưa từng có (4-1972). Trong điều kiện đó, Trung ương Đảng chủ trương duy trì Hội nghị Paris, “dùng nó làm diễn đàn tuyên truyền để tranh thủ dư luận quốc tế và kết hợp với chiến trường đấu tranh với chúng về mặt ngoại giao”[47]. Thấu triệt quan điểm này, tại Paris, Đoàn Ngoại giao Việt Nam đã chủ động, tích cực đấu tranh, đòi phải họp lại Hội nghị như thường lệ. Cuối cùng, phía Mỹ phải đồng ý nối lại cuộc đàm phán.
Từ giữa năm 1972, nước Mỹ đang bước vào cuộc chạy đua nước rút của bầu cử Tổng thống, mà chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam là đề tài trung tâm trong cuộc vận động đối với cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa. Thất bại và hy vọng, thực tế và khả năng, nhu cầu trước mắt và lâu dài… tất cả thúc đẩy Tổng thống R. Nixon tìm lối thoát bằng một giải pháp thương lượng. Nắm bắt thời cơ, Bộ Chính trị quyết định phát huy thắng lợi trên chiến trường, khai thác khó khăn từ trong nội bộ Mỹ, đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao trên bàn Hội nghị Paris, buộc Mỹ phải đàm phán theo hướng giải quyết toàn bộ vấn đề về chiến tranh Việt Nam.
Sự giằng co, những diễn biến phức tạp trên bàn đàm phán cho thấy thắng lợi về quân sự trên chiến trường sẽ là lợi thế của các bên trên bàn Hội nghị. Diễn biến trên bàn Hội nghị Paris gắn chặt, phụ thuộc hoạt động quân sự của cả hai bên trên chiến trường. Trước tình hình đó, Đảng nhận định đối phương “sẽ tăng cường chiến tranh ở miền Nam và có những hành động quân sự ác liệt hơn đối với miền Bắc”[48]. Đúng như nhận định của Trung ương Đảng, trong nỗ lực cuối cùng để bắt Việt Nam phải nhân nhượng thêm, từ tối 18- 12 đến 30-12-1972, Mỹ dùng máy bay B52 ném 10 vạn tấn bom đạn xuống các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, trọng tâm là Hà Nội, Hải Phòng. Dư luận Mỹ phẫn nộ về cuộc ném bom. Các cuộc đàm phán tạm ngừng sau ngày 13-12-1972.
Trong suốt 12 ngày đêm, quân dân miền Bắc đã kiên cường chiến đấu, giáng trả địch quyết liệt, đập tan cuộc tập kích chiến lược của không quân Mỹ, giáng cho không quân Mỹ đòn nặng nề nhất trong lịch sử xâm lược. Thất bại đó đã làm tan vỡ cố gắng cuối cùng của chính quyền Mỹ sử dụng sức mạnh huỷ diệt để đạt được mục tiêu “đàm phán trên thế mạnh”. Ngày 22-12-1972, Mỹ gửi Công hàm đề nghị gặp lại ngày 3-1-1973. Ngày 26-12-1972, Việt Nam DCCH kiên quyết đòi Mỹ bỏ thủ đoạn đe dọa để thương lượng, khi nào trở lại tình hình trước ngày 18-12-1972, hai bên sẽ tiếp tục thảo luận. Trong tư thế của người chiến thắng, ngày 8-1-1973, nhà ngoại giao Lê Đức Thọ và Xuân Thủy trở lại bàn đàm phán. Ngày 13-1-1973, văn bản đã được thỏa thuận. Đúng 12h 30p (giờ Paris) ngày 23-1-1973, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ cùng Cố vấn H. Kissinger ký tắt vào văn bản Hiệp định. Ngày 27-1-1973, diễn ra lễ ký kết chính thức Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, chấm dứt cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam - cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ với những thất bại nặng nề mà người Mỹ hằng tìm cách lý giải.
*                                 *
*
Hiệp định Paris được ký kết là thành quả rực rỡ của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, là kết quả của cuộc đấu tranh, đấu trí kiên quyết, sáng tạo trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao. Bằng trí tuệ, bản lĩnh và năng lực phân tích khoa học, bộ não lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã nắm bắt, nắm chắc những thời điểm quan trọng, có những quyết sách kịp thời, lái cuộc kháng chiến theo hướng có lợi nhất. Thắng lợi trên bàn đàm phán Paris không do một nhân tố đơn lẻ nào tạo ra, mà là kết quả tổng hợp của một loạt nhân tố quân sự - chính trị - tâm lý – ngoại giao; trong đó, cuộc đấu tranh kết hợp đánh - đàm, phát huy thắng lợi trên chiến trường kết hợp với đấu tranh ngoại giao có vai trò quan trọng. Đó là  thắng lợi thuyết phục không chỉ trước một đối thủ hùng mạnh, mà còn là sự thể hiện cao nhất của nghệ thuật dẫn dắt chiến tranh – nghệ thuật đánh – đàm độc lập, tự chủ - nghệ thuật quân sự của một dân tộc tuy không bắt đầu chiến tranh, nhưng biết kết thúc chiến tranh và kết thúc chiến tranh bằng con đường độc đáo: Dùng đấu tranh quân sự trên nền tảng ngoại giao chính nghĩa để đoạt lấy hòa bình.
Tải bài viết tại: Trang NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tập 28, tr. 87.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 170.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 123.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 121.
[5] Yang Kuisong: Changes in Mao Zedong's Attitude toward the Indochina War, 1949-1973, Tlđd, tr. 41.
[6] Hồ sơ quan hệ Việt - Trung trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (3-1954 đến tháng 8-1973), tài liệu lưu tại Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 112.
[7] Hồ sơ quan hệ Việt - Trung trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (3-1954 đến tháng 8-1973), Tlđd, tr. 113.
[8] Hồ sơ quan hệ Việt - Trung trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (3-1954 đến tháng 8-1973), Tlđd, tr. 113.
[9] Hồ sơ quan hệ Việt - Trung trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (3-1954 đến tháng 8-1973), Tlđd, tr. 114.
[10] И. В. Гайдук,  Советский Союз и война во Вьетнаме, Осмысление истории, М, 1996, c. 118.
[11] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), TLđd, tr. 43.
[12] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), TLđd, tr. 38-39.
[13] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), TLđd, tr. 39.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Sđd, tr. 195.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 122.
[16] Lịch sử quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 11, tr.205-207.
[17] Phương thức tiến công này không đưa ra bàn bạc ở Trung ương. Trong Bộ Tổng tham mưu, chỉ ai được phân công làm kế hoạch mới biết về phương thức tiến công mới này.
[18] Dẫn theoHội nghị Pari về Việt Nam, cuộc đàm phán hòa bình gay go nhất thế kỷ XX”, Cổng thông tin điện tử Chính phủ.
[19] Hồ sơ quan hệ Việt - Trung trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (3-1954 đến tháng 8-1973), Tlđd, tr. 142-143.
[20] Zhou Enlai And Pham Van Dong, Beijing, 13 April 1968, 77 conversations between Chinese and foreign leaders on the wars in Indochina, 1964-1977, Cold War International History Project, Wilson Center, p.122.
[21] Zhou Enlai And Pham Van Dong, Beijing, 13 April 1968, Tlđd, p.123.
[22] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), TLđd, tr. 39.
[23] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), TLđd, tr. 39.
[24] И. В. Гайдук,  Советский Союз и война во Вьетнаме, c. tr. 149.
[25] И. В. Гайдук,  Советский Союз и война во Вьетнаме, c. tr. 149.
[26] G.A. Amato, Lời phán quyết cuối cùng về Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1982, tr. 229.
[27] Mỹ đòi Việt Nam DCCH phải: Công nhận đại diện chính quyền Sài Gòn tại Paris; chấm dứt việc đưa người, vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam; ngừng ngay các cuộc tiến công vào các thành phố lớn ở miền Nam Việt Nam.
[28] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 28, tr. 170.
[29] Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 8-1968.
[30] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 31, tr. 49.
[31] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 32, tr. 128.
[32] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 32, tr. 340.
[33] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 32, tr. 195.
[34] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 32, tr. 366.
[35] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 32, tr. 366-367.
[36] Mao Zedong And Le Duan, Beijing, the Great Hall of the People, 11 May 1970, Tlđd, p.161.
[37] Mao Zedong And Le Duan, Beijing, the Great Hall of the People, 11 May 1970, Tlđd, p.162.
[38]Zhou Enlai And Pham Van Dong, Beijing, Beijing, 17 September 1970, Tlđd, p.172.
[39] Mao Zedong And Pham Van Dong, Beijing, 23 September 1970, Tlđd, p.174.
[40] Zhou Enlai And Le Duc Tho, Beijing, 12 July 1972, Tlđd, p.180.
[41] И. В. Гайдук,  Советский Союз и война во Вьетнаме, c. tr. 152.
[42] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), TLđd, tr. 40.
[43] Lorenz M, Beijing, Moscow, and the Paris Negotiations, 1971-1973, Journal of Cold War Studies  Volume 11, Number 1, Winter , 2009, p. 62.
[44] Lorenz M, Beijing, Moscow, and the Paris Negotiations, 1971-1973, p.62.
[45] Tài liệu lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Cục Tác chiến, hồ sơ 5247.
[46]Pierre Asselin, Nền hòa bình mong manh – Washington, Hà Nội và tiến trình Hiệp định Paris, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 55-56.
[47] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 33, tr. 252.
[48] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 33, tr. 408.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!