Thứ Ba, 11 tháng 8, 2015

XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG TRONG VẬN ĐỘNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN 1939-1945

PGS.TS. Hồ Khang,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam,
Bộ Quốc phòng
Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, giành thắng lợi là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố tạo nên; trong đó, xây dựng lực lượng, tập hợp, tập dượt, tổ chức, dẫn dắt và chuyển hóa lực lượng đó thành sức mạnh quật khởi quấn phăng mọi gông xiềng áp bức là yếu tố vô cùng quan trọng, là nhiệm vụ trọng tâm, bao trùm mọi hoạt động của những người cộng sản Việt Nam. Trong cuộc cách mạng mùa Thu năm 1945, người ta nhìn thấy sự có mặt của nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau được gắn kết lại bởi một mẫu số chung: Lòng yêu nước.
Lực lượng cách mạng ấy được hình thành và không ngừng nhân lên trong suốt tiến trình chông gai, gian khó vận động tiến tới giành chính quyền phản ánh một cách chân thực, sinh động nỗ lực âm thầm của bao lớp người cách mạng. Đó là một câu chuyện dài không hề đơn giản, bền bỉ sáng tạo và không ít hy sinh máu xương...
1- Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN)[1] ra đời là dấu mốc có tính bước ngoặt và tính đột phá trong phong trào yêu nước Việt Nam. Vừa được thành lập, còn non trẻ, việc xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng một đội ngũ quần chúng nhân dân hùng hậu, mạnh mẽ, giác ngộ mục tiêu lý tưởng cách mạng là hết sức cần thiết đối với ĐCSVN. Song, tại thời điểm đó, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế xu hướng tả khuynh – một xu hướng đang thịnh hành đã đánh giá khắt khe về khả năng, tinh thần cách mạng của giai cấp địa chủ, tư sản dân tộc, các trí thức yêu nước tiến bộ xuất thân từ tầng lớp trên ở các nước thuộc địa. Vượt qua cái nhìn thiếu khách quan, vượt qua những rào cản tư duy để nhìn nhận cho đúng sự phân hóa xã hội Việt Nam, giải quyết thấu đáo mối quan hệ dân tộc – giai cấp đòi hỏi một nhãn quan chính trị tỉnh táo, nhạy bén. Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của ĐCSVN đã đảm nhận và hoàn thành trách nhiệm lịch sử đó.
Phân tích đặc điểm xã hội Việt Nam, đánh giá thái độ của từng giai tầng, Cương lĩnh xác định mục tiêu tập hợp lực lượng cách mạng, đưa ra nguyên tắc tập hợp và sắp xếp lực lượng cách mạng. Trên tinh thần giải quyết hài hoà từng bước quyền lợi của các giai cấp cách mạng, ĐCSVN chủ trương "thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng..."[2]; đồng thời, “phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và  phải  dựa  vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa c.m đánh trúc  bọn  đại  địa chủ và phong kiến”[3], ra sức liên minh với các giai cấp cách mạng, các tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng xã hội không có người bóc lột người. Cương lĩnh nhấn mạnh: "Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín, cuộc cách mạng cũng khó thành công"[4].
 Dù quan điểm nêu trên phù hợp với thực tiễn Việt Nam, song nó chưa tìm ngay được sự đồng thuận và ủng hộ rộng rãi. Cuộc đấu tranh tư tưởng giữa một số lãnh đạo Quốc tế cộng sản III, một bộ phận lãnh đạo ĐCSVN với Nguyễn Ái Quốc – người soạn thảo Cương lĩnh cách mạng đầu tiên diễn ra tuy không ồn ào nhưng hết sức gay gắt. Nguyễn Ái Quốc bị lên án là "hữu khuynh", "nặng tinh thần dân tộc", "nhẹ về đấu tranh giai cấp"... . Cuối cùng, thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới đã xác nhận quan điểm tập hợp tối đa lực lượng nêu ra trong Cương lĩnh là đúng đắn.
Quán triệt tinh thần Cương lĩnh cách mạng đầu tiên, những người cộng sản Việt Nam tiến hành vận động, giác ngộ nhân dân, xây dựng lực lượng cách mạng trên nền tảng phát huy chủ nghĩa dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn của đất nước. Chính động lực ấy “đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho người culi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khoá, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917”[5]. Phát động “chủ nghĩa dân tộc bản xứ” là một “chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”, là con đường đưa người dân bản xứ thoát khỏi những u ám tối tăm của kiếp đọa đầy. Thật vậy, “người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ”[6].
Sớm nhận ra khát khao độc lập, tự do như làn sóng ngầm dưới bề mặt xã hội bị áp bức và nô dịch, ĐCSVN hóa giải một cách khôn ngoan những đối kháng về quyền lợi giữa các giai cấp, tầng lớp, phát huy tinh thần dân tộc và lòng yêu nước, thực hiện đại kết toàn dân, tập trung toàn bộ tinh thần, sức lực, ý chí cao nhất cho quyền lợi toàn cục, cho độc lập, tự do của dân tộc.
2-Năm 1939, bất chấp mọi nỗ lực chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình của nhân loại tiến bộ, cuối cùng, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai vẫn nổ ra, cuốn không ít quốc gia dân tộc vào vòng xoáy của nó với một viễn cảnh hết sức ảm đạm.
Đối với cách mạng Việt Nam, cuộc chiến tranh với mọi cơ tầng và chiều cạnh của nó đã tác động mạnh mẽ và trực tiếp, đặt ra nhiều vấn đề mới về chiến lược và sách lược. Muốn đánh đổ ách áp bức và nô dịch dân tộc, lực lượng tiên phong lãnh đạo cách mạng nhất thiết phải có chủ trương, chính sách nhạy bén, phù hợp, tập hợp cho được mọi lực lượng dân tộc, kể cả những lực lượng có tính nhất thời. Phân tích cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, ĐCSĐD đã dự báo về một trào lưu cách mạng khi hết thảy dân chúng bị áp bức sẽ thừa cơ nổi dậy  bẻ  xiềng nô lệ kéo dài đã hàng mấy chục thế kỷ. ĐCSĐD nhận định chiến tranh chính là tác nhân thúc đẩy thời cơ cách mạng nhanh chóng chín muồi, cần phải chuyển từ tích luỹ lực lượng sang đấu tranh trực diện đánh đổ cường quyền.
Xác định “bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn  có  con  đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp,  chống  tất  cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng  để  giành  lấy giải phóng độc lập”[7], ĐCSĐD coi việc làm cho mỗi người “có ý thức về sự tồn vong của dân tộc và sự liên quan  mật  thiết  của vận mạng dân tộc với lợi ích cá nhân mình;  đặt  quyền  lợi dân tộc lên trên các quyền lợi khác, thống  nhất  lực  lượng dân tộc”[8] là điều kiện cốt yếu, là con đường duy nhất đánh đổ đế  quốc  Pháp, giành độc lập dân tộc.
Với ưu thế trên võ đài chính trị trong  xứ,  “là đảng có thế lực nhất,  có  cơ  sở vững vàng nhất trong quần chúng, chiến đấu cương  quyết  hơn  hết để bênh vực quyền lợi cho dân chúng và tranh  đấu  đòi  tự do, độc lập cho dân tộc”[9], ĐCSĐD chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương “để tranh đấu chống đế quốc chiến tranh, đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến thối nát, giải phóng các dân tộc Đông Dương làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”[10]. Để huy động và phát huy nội lực dân tộc thông qua khối đại đoàn kết toàn dân, khác với Mặt trận dân chủ trước đây chưa đánh bại các xu hướng cải lương, thì Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế “là một mặt trận kịch liệt chống đối với các đảng phái, các xu hướng cải lương đề huề, làm liệt bại chúng nó hoàn toàn trong phong trào giải phóng dân tộc”[11]. Để tập hợp lực lượng rộng rãi hơn nữa phù hợp với bước chuyển của tình hình, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt trận Việt Minh). Đây là hình thức tập hợp lực lượng hết sức linh hoạt, nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc, đoàn kết tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải phóng dân tộc, để cùng tranh đấu chống đế quốc thực dân đòi cơm áo, hoà bình, thực hiện nền độc lập hoàn toàn và quyền dân tộc tự quyết cho các dân tộc Đông Dương.
Với chủ trương “liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị”[12], mặt trận Việt Minh nhanh chóng có được sự ủng hộ không chỉ của hai giai cấp công nhân, nông dân, mà còn của tầng lớp trí thức, địa chủ yêu nước tiến bộ, tư sản dân tộc, tăng ni, giáo sĩ, phật tử.... Các nhà hữu sản góp nhiều tiền của, thóc gạo, mua công phiếu Việt Minh, kín đáo ủng hộ tiền vàng và mua súng giúp Việt Minh. Tầng lớp trí thức tiến bộ ngả về phía Việt Minh, hoạt động trong các hội truyền bá chữ quốc ngữ. Theo tiếng gọi của Việt Minh, nhiều trí thức nổi tiếng "xếp bút nghiên" lên vùng chiến khu tham gia cách mạng. Các vị giáo sĩ, tăng lữ, đồng bào theo đạo Thiên chúa và các tôn giáo khác... giúp Việt Minh in tài liệu, giao thông liên lạc, đưa đón cán cán bộ.... Từ miền núi đến miền xuôi, từ ngoài Bắc vào trong Nam, một cao trào cứu nước phát triển mạnh mẽ, khối đoàn kết dân tộc lớn mạnh chưa từng có. Từ đầu nguồn cách mạng trên chiến khu rừng rậm đến đồng bằng cả nước, trong một thời gian ngắn đã nhanh chóng xây dựng được các cơ sở và lực lượng cách mạng đều khắp, tạo bước đột phá về chất cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Nhằm xây dựng lực lượng liên minh chính trị rộng rãi trong mặt trận để thực hiện những nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng, Đảng CSĐD chủ trương: Công nhân và nông dân phải gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, vì lợi ích sống còn của dân tộc mà không ngần ngại bắt tay với tiểu tư sản và những tầng lớp tư bản bản xứ, trung tiểu địa chủ, là những thành phần ít nhiều có lòng căm thù đế quốc. Khi họ bước vào hàng ngũ, đứng dưới ngọn cờ lãnh đạo của giai cấp vô sản, đấu tranh vì mục tiêu lớn nhất là giải phóng dân tộc thì lực lượng lãnh đạo phải làm cho họ hiểu rằng chỉ có thực hiện tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng mới thoát khỏi sự áp bức, đè nén mọi mặt của chính quyền đế quốc, chỉ có đứng vào mặt trận, quyền lợi của họ mới được giải quyết. Trong khi bảo vệ lợi ích tối cao của dân tộc và công nông, cách mạng không có gì khác hơn là phải giải quyết hài hoà quyền lợi kinh tế, chính trị của các thành viên mặt trận.
 Xác định nhiệm vụ chính là chuẩn bị khởi nghĩa và tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, ĐCSĐD ra sức phát triển đảng viên mới. Đến cuối năm 1939, Đảng có 2.300 đảng viên với gần 300 chi bộ được phân bố trong khắp cả nước. Đến năm 1943, số đảng viên ở xí nghiệp, hầm máy, thành thị tăng rõ rệt; các chi bộ và đảng viên đặc biệt tăng nhanh ở khu căn cứ Cao – Bắc –Lạng, chiếm 20% số tăng của cả nước: Từ 2.850 đảng viên năm 1943, đến năm 1944 đã tăng lên 3.150, còn đến khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng đã có 5000 đảng viên[13]; số chi bộ tăng từ 300 năm 1943 tới gần 400 vào năm 1944. Lực lượng lãnh đạo nòng cốt này là những hạt giống đỏ cho thắng lợi của cách mạng sau này.
Trên quan điểm “cuộc cách mạng Đông Dương phải được kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”[14], về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, Trung ương Đảng quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm. Tháng 11-1941, tiểu đội du kích thoát ly đầu tiên ở Cao Bằng (gồm 13 người) được thành lập. Cuối 1944, trước đòi hỏi gấp rút của tình hình, khi ngày khởi nghĩa đang đến gần, căn cứ vào điều kiện thực tiễn, ĐCSĐD thành lập lực lượng vũ trang làm đòn bẩy cho cao trào cách mạng toàn quốc bùng nổ. Chọn trong hàng ngũ những đội du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ, đội viên kiên quyết, hăng hái nhất, tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực, tháng 12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân ra đời. Vài ngày sau khi thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã lập hai chiến công vang dội hạ đồn Phai Khắt (ngày 25-12) và đồn Nà Ngần (ngày 26-12).
Đi đôi với củng cố lực lượng chủ lực,  ĐCSĐD chỉ thị duy trì lực lượng vũ trang ở các địa phương – hai lực lượng này cùng phối hợp hành động và giúp đỡ  lẫn nhau về mọi phương tiện. Đội quân chủ lực có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, tương trợ huấn luyện, tương trợ vũ khí, làm cho lực lượng vũ trang địa phương nhanh chóng trưởng thành.
3- Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (1941) là một bước ngoặt quan trọng cả về nhận thức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của ĐCSĐD. Trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình trong nước và thế giới, trên cơ sở phân tích các điều kiện khách quan, chủ quan, Hội nghị quyết định thay đổi chính sách, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết một cách nhuần nhuyễn quan hệ giữa cách mệnh phản đế  và  điền  địa[15]. Đặt nhiệm vụ thu  góp  toàn lực đem tất cả ra quyết giành quyền độc lập, tự do  cho  dân  tộc, ĐCSĐD tập trung “lực  lượng  cách mạng toàn cõi Đông Dương, không phân biệt  thợ  thuyền,  dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ”[16], với tiêu chí duy nhất: Yêu nước thương nòi. Đoàn kết là sức mạnh, chia rẽ là yếu – trên quan điểm đó, một mặt, ĐCSĐD ra sức kêu gọi nhân dân đoàn kết một lòng, muôn người như một cùng chung tay vì việc nghĩa; mặt khác, đánh giá đúng thái độ của các lực lượng chính trị khác nhau trong xã hội để có chủ trương đoàn kết, tập hợp, “thêm bạn bớt thù”.
Luôn nhận thức rằng, “năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại giữa bàn tay. Trong mấy triệu người, cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta”[17], ĐCSĐD nhất quán thực hiện chính sách hợp tác giữa các lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đặt cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam vào phạm trù của cuộc cách mạng vô sản thế giới, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới, ĐCSĐD nhận thức một thực tế khách quan quan trọng hết sức đặc thù cho các xứ thuộc địa và hoàn toàn không giống như ở châu Âu: Ách áp bức của đế quốc đè nặng lên đầu mỗi người dân; dù ở bất kể thành phần xã hội hoặc giai cấp nào, người dân xứ thuộc địa đều phải sống trong bầu không khí hết sức ngột ngạt của nô dịch và bất công. Vì vậy, dù có địa vị xã hội, quyền lợi kinh tế, chính trị khác nhau, ở xã hội thuộc địa Việt Nam không có một giai cấp siêu hình đứng ngoài dân tộc. Dù đế quốc xâm lược có câu kết với một bộ phận nhỏ giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, áp bức bóc lột dân tộc, thì kẻ thù chính, kẻ thù chủ yếu và nguy hiểm nhất vẫn là đế quốc xâm lược.
Từ tư duy khoa học đó, nhiệm vụ chiến lược của cuộc cách mạng dân tộc giải phóng ở Việt Nam có đặc điểm nổi bật: Tập trung mũi nhọn chủ yếu của cách mạng vào đế quốc thực dân; nhiệm vụ phản phong phải luôn phục tùng nhiệm vụ phản đế. Đó đồng thời cũng là cơ sở cho sách lược triệt để cô lập đế quốc, triệt để cô lập lực lượng tay sai, phân hóa giai cấp bóc lột, trung lập các lực lượng chưa thể đoàn kết. Điều quan trọng đó, trong lịch sử phát triển của phong trào cộng sản thế giới, không ít tổ chức hoặc lãnh tụ đã mắc sai lầm, thậm chí là sai lầm nghiêm trọng khi giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc làm cho cách mạng lâm vào thế đơn độc, cô lập. Kế thừa truyền thống đoàn kết dân tộc, phát huy tinh thần dân tộc chân chính, trong tập hợp lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa, ĐCSĐD đã vượt qua được tiền lệ đó, vượt qua được thảm họa của sự chia rẽ. Cách mạng tháng Tám thắng lợi là một minh chứng thuyết phục cho nhận định nói trên.
*                      *
*
Soi vào lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, có thể dễ dàng nhận thấy ngay rằng, tư tưởng chủ đạo, truyền thống nổi trội của dân tộc là chủ nghĩa yêu nước chống xâm lăng, bảo vệ sự tồn vong của dân tộc, là tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Vốn là một giá trị căn bản, phổ quát của cộng đồng dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc ấy trong những giây phút quyết định vận mệnh quốc gia đã tạo nên sức mạnh vô địch, cuốn phăng mọi thành trì áp bức, làm lung lay đến tận gốc rễ tòa lâu đài thuộc địa mà thực dân Pháp đã dày công xây dựng. Trên nền tảng đại đoàn kết vững bền, lâu đời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, tinh thần dân tộc ấy đã làm sâu sắc thêm sự gắn kết dân tộc, thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng tập hợp lực lượng toàn dân tộc, thắng lợi của khối đại đoàn kết toàn dân, thắng lợi của tinh thần dân tộc chân chính – những yếu tố ấy luôn là những giá trị trường tồn làm nên bản sắc dân tộc Việt Nam, là vũ khí sắc bén của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do.




[1] Từ tháng 10-1930, đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD)
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, tr.4.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 2, tr.4.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 2, tr.227.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.466.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, 1995, Sđd, tập 1, tr.467.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,  tập 6, tr.536.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,  tập 6, tr.544.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 6, tr.527.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 6, tr.537.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 6, tr.537-538.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.461.
[13] Nguyễn Hữu Tri - Nguyễn Thị Phương Hồng: Lịch sử công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.94.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 6, tr.129.
[15]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 6, tr.538.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 7, tr.112.
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, 1995, Sđd, tập 4, tr.246-247.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!