PGS,TS.
Hồ Khang,
Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam,
Bộ Quốc phòng
Sau 21 năm chiến đấu, đương đầu với không ít thách thức
khó khăn, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam đã đi đến thắng lợi
hoàn toàn. Trong chiến thắng ấy, có sự góp mặt của nhiều lực lượng, nhiều mặt
trận và cơ quan khác nhau. Trên bình diện quân sự, bên cạnh quá trình chiến đấu
dũng cảm và hy sinh máu xương của từng chiến sĩ, cán bộ lực lượng vũ trang, còn
có sự đóng góp quan trọng, to lớn của cơ quan tham mưu chiến lược là Bộ Tổng
tham mưu (BTTM), thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam – một cơ quan đã hoàn thành xuất
sắc chức năng tham mưu và chức năng chỉ đạo điều hành hoạt động quân sự; trong
đó có công tác chi viện chiến trường.
1- Xác định phương hướng,
lập đề án, kế hoạch chi viện cho chiến trường
Sau khi Hiệp định Geneve được ký kết, cách mạng Việt Nam
bước vào giai đoạn mới: Khôi phục và xây dựng miền Bắc sau giải phóng, biến miền
Bắc thành “nền”, thành “gốc”, hậu thuẫn cho nhân dân miền Nam đấu tranh trên
tuyến đầu Tổ quốc, tiến tới hoàn thành mục tiêu thống nhất đất nước. Thời kỳ
này, nhiệm vụ trung tâm của BTTM là thực hiện chủ trương xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam từng bước tiến lên chính quy, hiện đại. Liên quan đến cách mạng miền
Nam, Bộ Chính trị và Ban Thống nhất Trung ương trực tiếp đảm nhận mọi công tác.
Tháng 1-1961, Quân ủy Trung ương được thành lập và từ thời điểm đó, BTTM được
giao nhiệm vụ giúp Quân ủy Trung ương trong tiến hành nhiệm vụ quân sự ở miền
Nam.
Ngay sau khi nhận trọng trách, từ tháng 3 đến tháng
5-1961, BTTM tập trung lập Đề án “Tổ chức
và chuẩn bị lực lượng cho kế hoạch miền Nam” và Đề án “Trang bị cho chiến trường miền Nam”. Đây là hai đề án đầu tiên của
BTTM đối với chiến trường, đồng thời là hai Đề án có ý nghĩa đặc biệt đối với cục
diện chung của chiến trường; do vậy, công tác chuẩn bị và soạn được tiến hành
thận trọng, kỹ lưỡng và khẩn trương. Định hướng chung là trên cơ sở nghiên cứu
các phương án, nhiệm vụ quân sự đã được hoạch định, “cần chuẩn bị lực lượng
tương đối toàn diện nhằm bảo đảm thực hiện kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang
của Trung ương và Quân ủy”[1].
BTTM dự định tổ chức cho miền Nam các lực lượng tập trung, các đại đội độc lập,
đơn vị bảo đảm, cơ sở quân y, quân giới, tiếp
tế, vận tải, các tiểu đoàn pháo độc lập và một số đại đội công binh, đặc công,
cao xạ, thông tin[2]...
Phương châm bảo đảm vật chất cho lực lượng vũ trang miền Nam là “phát huy cao độ
tinh thần tự lực cánh sinh, đồng thời miền Bắc tích cực giúp đỡ cho chiến trường
miền Nam; tổ chức hệ thống tiếp tế chặt chẽ”[3].
Về trang bị cho chủ lực miền Nam, BTTM xác định phải gọn
nhẹ, đáp ứng yêu cầu “dễ cơ động, có hỏa lực khá mạnh để đánh gần, tiến hành
nâng trang bị dần từng bước phù hợp với khả năng của miền Bắc”[4].
BTTM nhấn mạnh cần hết sức chú ý trang bị những loại vũ khí mà địch đang hoặc sẽ
sử dụng để miền Nam có thể tự túc được phần lớn đạn dược; ngoài vũ khí còn phải
trang bị đồng bộ phương tiện chỉ huy, khí tài thông tin, sửa chữa vũ khí....Thực
hiện mục tiêu này, BTTM đồng thời nghiên cứu, đề xuất các kế hoạch trình Quân ủy
Trung ương đề nghị các nước XHCN viện trợ vũ khí, khí tài của Mỹ, giúp đỡ sản
xuất một số bộ phận trọng yếu của các loại trang bị như mìn, lưu đạn... cho miền
Nam.
Về phương thức vận chuyển vũ khí, đạn dược cho chiến trường,
lường định những khó khăn, trở ngại to lớn sắp đến, bên cạnh việc tích cực củng
cố hệ thống sẵn có một cách vững chắc, BTTM chủ trương phải tập trung mở đường
qua chiến trường Lào, nghiên cứu tiếp tế bằng đường biển.
Tháng 7-1961, Thường trực Quân ủy Trung ương thông qua
các Đề án, kế hoạch do BTTM soạn thảo, nhất trí và nhấn mạnh hai nội dung lớn:
1- Chỉ tiếp tế, trang bị cho miền Nam vũ khí của Mỹ, Pháp; không nên đưa vào miền
Nam vũ khí của Liên Xô, Trung Quốc; 2- Nếu triển khai vận chuyển, chi viện cho
miền Nam bằng đường thủy, phải tổ chức biệt lập với đường bộ, đường của cán bộ
dân, chính, Đảng[5].
Quân ủy Trung ương lưu ý thêm: Việc vận chuyển vũ khí bằng đường biển trực tiếp
do Quân ủy phụ trách, vì đây là công việc không chỉ hết sức quan trọng, mà còn
rất bí mật[6].
Tiếp đó, trong Chương trình công tác năm 1963
do BTTM soạn thảo, liên quan đến
chi viện cho miền Nam, nhiệm vụ tuyển quân, biên chế, trang bị, huấn luyện và tổ
chức hành quân; sửa chữa, bổ sung khí tài, chấn chỉnh mạng lưới thông tin, đào
tạo nhân viên... được nhắc lại một lần nữa[7].
Bên cạnh đó, BTTM cũng yêu cầu “nghiên cứu một số vấn đề kỹ thuật và lập kế hoạch
sản xuất trang bị cho chiến trường; chấn chỉnh cơ quan phụ trách theo dõi và
giúp chỉ đạo công tác miền Nam”[8].
Trước những vận động, biến chuyển nhanh chóng của tình
hình, tháng 2-1964, BTTM điều chỉnh chủ trương và kế hoạch tổ chức lực lượng thời
kỳ đầu chiến tranh. Về tổng thể, đến đầu năm 1970, BTTM dự định “phải xây dựng
được một lực lượng vũ trang lớn mạnh, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ chiến lược
trong mọi trường hợp, kể cả trường hợp khó khăn nhất của cuộc tiến công quy mô
lớn có quân đội Mỹ tham chiến, sử dụng cả vũ khí nguyên tử”[9].
Đối với bộ đội miền Nam, trong ba năm 1965-1967, lực lượng có thể phát triển
lên khoảng 15-20 vạn quân, tổ chức 20 trung đoàn và một số sư đoàn; đồng thời,
với lực lượng đó, cần chuẩn bị thêm 6.500 cán bộ các cấp và 3.800 nhân viên kỹ
thuật chuyên môn[10]. Đề án xây dựng lực lượng vũ trang đến 1967
(được Thường trực Quân ủy Trung ương thông qua vào tháng 5-1964) đã xác định rõ
nguyên tắc xây dựng lực lượng cho miền Nam: “Chi viện từ ngoài vào là quan trọng”,
còn về trang bị thì miền Nam “có khả năng tiếp nhận và sử dụng đến đâu đưa vào
đến đấy; phải dự kiến trường hợp khó khăn”[11].
Triển khai thực hiện các kế hoạch, đề án, từ năm 1961,
BTTM chú trọng vào các nhiệm vụ: Một là,
lập các kế hoạch đặt hàng viện trợ quân sự, tranh thủ viện trợ quân sự từ các
nước XHCN; hai là, huy động nguồn lực
trong nước, phối hợp, với các cơ quan giải quyết các vấn đề về sản xuất, cung ứng
quốc phòng; ba là, đảm bảo các điều
kiện về vận chuyển và vận chuyển trang thiết bị quân sự đầy đủ, an toàn vào chiến
trường. Đó đồng thời cũng là ba nội dung lớn, phản ánh một cách toàn diện công
tác chi viện cho chiến trường mà BTTM đảm nhận cho đến khi chiến tranh kết thúc.
2- Huy động nguồn lực,
giải quyết các vấn đề về cung ứng quốc phòng
Để có nguồn lực chi viện cho chiến trường miền Nam nói
riêng, cho cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung, BTTM tranh thủ, huy động và tiếp
nhận từ các nước XHCN, các lực lượng hòa bình, dân chủ thế giới và từ trong nước
với tinh thần gắn kết và phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại.
Xác định cuộc đấu
tranh thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam muốn giành thắng lợi phải tranh
thủ được sự ủng hộ của các nước XHCN, nhất là Liên Xô, Trung Quốc, BTTM lập các kế hoạch đặt hàng viện trợ theo từng
năm, theo ba năm và năm năm. Các kế hoạch thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng lực lượng và tác chiến trên chiến trường.
Trong các đề án về nhu cầu đặt hàng
trang bị kỹ thuật cho quân đội, kế hoạch đề nghị viện trợ vũ khí, trang bị
cho chiến trường miền Nam..., BTTM xác
định phương hướng chung là bảo đảm yêu cầu cao nhất cho việc nâng cao tiềm lực
phòng thủ ở miền Bắc, tăng cường trang bị thật mạnh cho các lực lượng vũ trang
miền Nam[12].
Về chất lượng trang bị, “không đặt những
trang thiết bị khí tài lạc hậu, ít giá trị sử dụng, chưa đặt những khí tài chưa
sử dụng gấp mà khó khăn trong bảo quản”[13];
đặt những thứ trang bị, vũ khí, khí tài
hợp với chiến trường Việt Nam, hợp với cách đánh của Việt Nam, gọn, nhẹ, cơ động,
bền và có chất lượng cao[14].
Các trang bị quân sự được đề nghị viện trợ chủ yếu là súng bộ binh, súng cối-ĐKZ,
súng trọng liên 12,7 ly, đạn và mạng vô tuyến...
đều là loại mới, tốt, hiện đại, đang sản xuất và sử dụng lâu dài, có đủ bộ phụ
tùng thay thế và nguồn bổ sung. Riêng năm 1962, nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ
trang nói chung, lực lượng vũ trang cho miền Nam nói riêng đang được đẩy mạnh,
đặt hàng viện trợ trang thiết bị quân sự, BTTM đề nghị được nhận khối lượng
hàng hóa quân sự lớn so với tổng khối lượng của toàn bộ 5 năm 1961-1965, có loại
chiếm đến 35-37% (súng, pháo hạng nhẹ, pháo cao xạ, máy móc thông tin...)[15].
Năm 1967, chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy 1968, về trang bị cho lực lượng
vũ trang miền Nam, BTTM yêu cầu các nước XHCN giúp đỡ trang bị cho lực lượng vũ
trang miền Nam đủ cho 250.000 bộ đội tập trung và 500.000 dân quân du kích, với
tỷ lệ hai người một súng, trong đó tăng cường tiểu liên AK, súng chống tăng và
xe cơ giới, súng cối, hỏa tiễn, vô tuyến điện cho các phân đội nhỏ, bổ sung
trang bị khí tài tiêu hao hàng năm và có lượng dự trữ, trang bị đạn để đánh được
2 – 3 năm, bảo đảm quân trang, quân y cho 300.000 người và một phần thực phẩm cần
thiết[16].
Trước chiến dịch Xuân – Hè 1972, BTTM yêu cầu viện trợ quân sự cho năm 1971
tăng gấp rưỡi so với năm 1970. Nhờ những cố gắng kịp thời, khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn quyết định (1969-1972), viện trợ quân sự
của các nước XHCN cho Việt Nam tăng cao: Hơn 1 triệu tấn, trong đó trang bị kỹ
thuật chiếm gần 50 % (484.671 tấn). Trọng lượng trên so với tổng trọng lượng
hàng viện trợ quân sự trong 20 năm (1954-1974) chiếm gần phân nửa. So với năm
1964, năm 1973, viện trợ của các nước XHCN cho Việt Nam tăng trung bình từ 5 đến
10 lần, có loại từ 12 đến 22 lần (súng máy cao xạ, máy bay, cầu phà công binh)[17].
Quân đội nhân dân Việt Nam sở hữu những vũ khí hiện đại, tối tân: Tên lửa phòng
không, tên lửa chống tăng, tầu chiến mang tên lửa[18];
súng bộ binh bắn tự động, pháo nòng dài có tầm bắn xa 130 mm, Đ74; xe tăng có tốc
độ tấn công cao, vỏ thép dày T54B, T59; pháo cao xạ 23 mm, 57 mm; tên lửa có
phòng không có A72, S125, SA75M (3 cabin); tầu mang tên lửa của hải quân; máy
bay Mig 21/96; xe tăng, xe thiết giáp, ô tô, xe bánh xích, ra-đa[19].
Khí tài chỉ huy của pháo cao xạ và tên lửa không ngừng hiện đại hóa; phương tiện
vận tải, làm đường, vượt sông được cơ giới hóa[20]...
Bên cạnh đó, BTTM chỉ đạo Cục Nghiên cứu kỹ thuật, Cục
Quân giới soạn thảo và thực hiện các đề án nghiên cứu kỹ thuật cho chiến trường
miền Nam, nhằm cải tiến, chế tạo những
trang bị kỹ thuật cần thiết phù hợp với lối đánh phục kích, công kiên vừa và nhỏ,
đánh đặc công, chống máy bay, bảo đảm thông tin, chống vũ khí hóa học, vi trùng[21]...
Dưới sự chỉ đạo BTTM, các loại súng cồng kềnh, sử dụng phức tạp đã được cải tiến giảm nhẹ trọng lượng, giảm bớt
thiết bị lắp đạn, phù hợp với địa hình miền Nam nhiều kênh rạch.
Trong phối hợp, với các bộ, ngành giải quyết các vấn đề về
sản xuất, cung ứng trang thiết bị quân sự, thực hiện nhiệm vụ kinh tế kết hợp với
củng cố quốc phòng, BTTM làm rõ và xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan
hệ công việc, giải quyết kịp thời các vấn đề thuộc về đảm bảo ngân sách quốc
phòng, xây dựng cơ sở quốc phòng, thực hiện kế hoạch sản xuất và cung ứng quốc
phòng cho quân đội[22]....Bên
cạnh đó, trên tinh thần “miền Bắc là chỗ đứng của ta”, quán triệt quan điểm “bất
kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải được củng cố”[23]
- xây dựng miền Bắc nghĩa là củng cố hậu
phương và bằng con đường đó, đảm bảo nguồn lực dồi dào chi viện cho chiến trường,
BTTM hết sức coi trọng nhiệm vụ xây dựng hậu phương quốc gia. BTTM nêu quan điểm:
“Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, ra sức xây dựng hậu phương quốc gia,
đảm bảo sẵn sàng và có đủ khả năng phục vụ nhu cầu quân sự thời bình và thời
chiến”[24]. Chủ trương này tiếp tục
được làm rõ thêm và có sự điều chỉnh vào đầu năm 1965, khi miền Bắc đứng trước
cuộc chiến tranh phá hoại khốc liệt của Mỹ. Trong Phương hướng xây dựng hậu
phương quốc gia được soạn thảo vào ngày 25-2-1965, BTTM xác định những yêu
cầu căn bản: 1-Có kế hoạch tiến hành ngay trong thời bình; 2-Tự lực cánh sinh
là chính; 3-Kết hợp dân sinh với quốc phòng; 4- Đạt tới sự vững mạnh về chính
trị, dồi dào về của cải vật chất, vững chắc về quốc phòng; 5- Xây dựng hậu
phương phải toàn diện, nhưng khâu quan trọng nhất là xây dựng kinh tế[25]. Nhờ có hậu phương vững
mạnh, rộng lớn, mỗi năm, miền Bắc dành 20% tổng sản
phẩm lương thực cung cấp cho lực lượng vũ trang; động viên hàng chục vạn con em
lên đường chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong chiến trường miền Nam. Khối lượng
hàng hóa, số lượng nhân lực chi viện cho miền Nam tăng đều, tăng mạnh qua các
năm: Nếu như đầu năm
1964, đã “huy động cho miền Nam 7.500 cán bộ; 1.917 nhân viên kỹ thuật; 24.726
hạ sĩ quan và chiến sĩ; 16,5 vạn khẩu súng các loại; trên 900 tấn gạo, muối,
quân trang, thuốc men...”[26],
thì đến năm 1968 đã có 336.914 người hành quân vượt Trường
Sơn vào Nam đánh Mỹ[27].
Năm 1968, miền Bắc bổ sung cho chiến trường miền Nam 141.084 chiến sĩ, năm 1972 xấp xỉ
153.000 chiến sĩ, năm 1975 là hơn 117.000 cán bộ, chiến sĩ[28]. Như vậy, trong
thời gian thực hiện các cuộc tiến công chiến lược (1968, 1972, 1975), động viên
nhân lực ở miền Bắc phục vụ nhu cầu chiến trường thường tăng gấp 4 đến 5 lần. Về
vật chất, những năm 1965 -1968, miền Bắc đưa vào miền Nam khối lượng gấp 10 lần
so với những năm 1961 – 1964. Trong 2 năm 1973 và 1974, 397.000 tấn vật chất được
chuyển từ miền Bắc tới mặt trận, bằng 54% tổng khối lượng vật chất giao cho các
chiến trường trong suốt 16 năm trước đó.
3-
Đảm bảo giao thông cho vận chuyển trang thiết bị quân sự vào
chiến trường
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, huy động đủ nguồn lực
đã là hết sức khó khăn, nhưng đưa được nguồn lực đó an toàn, kịp thời vào chiến
trường còn khó khăn gấp bội. Năm 1965, tiến hành chiến
tranh phá hoại, Mỹ tập trung hơn 50% số phi vụ không quân vào việc đánh phá,
ngăn chặn giao thông. Trong hai năm 1966-1967, Mỹ tăng gấp 7 lần hoạt động và số
bom đạn so với năm 1965[29],
đánh vào tất cả những tuyến đường huyết mạch bất kể đường bộ, đường sắt, đường
sông hay đường biển với cường độ và quy mô đánh phá ngày càng tăng, đặc biệt
trên địa bàn các tỉnh Khu IV. Giao thông vận tải thực sự trở thành một mặt trận
hết sức cam go, quyết liệt; do đó, công việc đầu tiên và cũng quan trọng nhất của
BTTM là phải tư vấn, chỉ đạo xây dựng và đảm bảo mạng lưới giao thông thông suốt.
Vì lẽ đó, tháng 3-1964, kế hoạch xây dựng mạng giao thông quân sự trong chiến
lược phòng thủ miền Bắc nói riêng, trong xây dựng hậu phương, củng cố quốc
phòng nói chung được BTTM nghiên cứu, đề xuất. Dự kiến trong 5 năm (1965-1970),
“sẽ xây dựng mạng lưới đường chiến lược và chiến dịch, bảo đảm giao thông thông
suốt từ biên giới Việt – Trung vào hậu phương quốc gia và từ căn cứ phía Bắc
vào giới tuyến, sang Lào và vào miền Nam. Đồng thời bảo đảm sự liên hệ giữa các
khu vực, các căn cứ của các quân khu, binh quân chủng trên toàn chiến trường miền
Bắc”[30].
Về tổng thể, BTTM cùng với Bộ Giao thông vận tải đầu tư, cải tạo, mở mới, xây dựng
hai mạng lưới đường bộ: 1- Đường từ Hà Nội lên các tỉnh biên
giới phía Tây và phía Bắc; 2- Hệ thống đường chiến lược Bắc - Nam với nhiều trục
dọc song song và nhiều đường ngang, nối liền với cả Đông Trường Sơn và Tây Trường
Sơn. Trên miền
Bắc,
BTTM với Bộ Giao thông vận tải phát triển đường song
song, đường vòng, đường tránh các trọng điểm đánh phá ở những nút giao thông
chiến lược.
Trong hai năm 1965-1967, BTTM phối hợp với các đơn vị công binh, cao xạ Trung
Quốc triển khai thực hiện Hiệp nghị xây dựng bộ, đường sắt và bảo đảm, cứu chữa
giao thông trên một số tuyến đường[31].
Tiếp đó, các năm 1966-1968, BTTM phối hợp
với Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước tiếp tục xây dựng tuyến đường
ngang Bình Gia – Ngô Khê – Sơn La[32],
xây dựng tuyến đường mới Phong Nha – Vịt Thù Lù – Achoóc – Bản Đông; đẩy mạnh
tiến độ nâng cấp đường 15, trọng điểm là đoạn phía Nam Khu 4 và cải tạo tuyến
Tân Kỳ - Tri Lễ - Hương Sơn – Hương Khê – Tân Ấp; tiếp tục nâng cấp đường 13
lên đường cấp 3[33].
Để đảm bảo yêu cầu kế hoạch vận chuyển của Lào và giúp Lào trên hướng 4 tỉnh Bắc
Lào trong mùa khô năm 1967 – 1968, BTTM đề nghị Bộ Giao thông vận tải gấp rút
thi công đoạn đường từ Cốc Nghịu đi
Sốp Ất (Lào) theo kiểu đường quân sự làm gấp, bảo đảm cho xe 2 cầu trọng tải 2
tấn đi lại được[34].
Tháng 3-1965, BTTM chỉ đạo các cơ quan trực thuộc nhanh chóng triển khai làm đường
chiến lược 912 (từ Đường 12 qua Đường 9 đến bản Bạc), phấn đấu thông xe trước
tháng 7-1965[35].
Kết quả là bất chấp bom đạn phá hoại của Mỹ, “chiều dài của đường bộ
vẫn được tăng thêm, mạch máu giao thông vẫn thông suốt nối liền hậu phương với
tiền tuyến, nối liền các vùng đất nước, nối liền nước ta với các nước anh em và
bè bạn”[36].
Trên các
tuyến đường không ngừng được củng cố và xây dựng mới, vận chuyển cơ giới được đẩy mạnh, khối lượng vật chất vận chuyển cho miền
Nam ngày một tăng: Năm 1969 chuyển được 2 vạn tấn; năm 1970 lên 4 vạn tấn; năm
1971 đạt tới 6 vạn tấn[37].
Trong chiến dịch vận chuyển mùa khô 1971 – 1972, tổng lượng hàng hoá giao cho
các chiến trường và bảo đảm hành quân đạt 64.785 tấn, trong đó giao cho Trung Hạ
Lào 5282 tấn; ngoài ra, trên các hướng đã tạo được chân hàng dự trữ 9000 tấn; vận
chuyển đảm bảo cho nội bộ khoảng 80.000 tấn, bao gồm thiết bị vật tư ô tô, xưởng
máy, xăng dầu, vũ khí, đạn, thuốc quân y và hàng hoá phục vụ đời sống, sinh hoạt
của bộ đội, thanh niên xung phong[38].
Song song với tuyến đường
bộ vươn sâu xuống các mặt trận, tuyến đường ống cũng được khẩn trương xây dựng,
lắp đặt để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về xăng dầu của chiến trường miền Nam.
Năm 1971, miền
Bắc kéo được 500 km; cuối năm 1971 lắp được gần 1000 km. Nhờ tuyến đường
ống, mùa khô năm 1970 – 1971, miền Bắc chuyển vào chiến trường miền Nam khối
lượng xăng dầu lớn gấp 10 lần mùa khô 1969 – 1970[39].
Ngoài xây dựng, làm mới các tuyến đường, Quân ủy Trung ương và BTTM quyết định 60% lực lượng phòng không miền Bắc tập
trung bảo vệ các tuyến đường huyết mạch. Nhiều trận địa pháo cao xạ bố trí ngay giữa
các trọng điểm được ví là "túi bom", bên chân cầu, bến phà, liên tục
chiến đấu với các đợt đánh phá ác liệt không kể ngày đêm. BTTM thường xuyên thông báo hoạt động của Mỹ cho Bộ Giao thông vận tải và
các cơ quan Nh có liên quan, đề xuất những kiến nghị bảo vệ, sơ tán các chân
hàng, các kho tàng, nhất là ở khu vực trọng điểm.
Để đảm bảo thông suốt công tác chi viện cho miền Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam
quyết định xây dựng tuyến vận tải chiến lược; theo đó, tháng 5-1959, Quân ủy
Trung ương ra quyết định thành lập tuyến giao liên quân sự trên bộ. Ngày
19-5-1959, Đoàn vận tải quân sự 559 chính thức được thành lập, có nhiệm vụ mở
đường Trường Sơn, chi viện chiến trường miền Nam. Để kịp thời chi viện cho miền
Nam trên hướng biển, tháng 5-1959, BTTM quyết định thành lập Tiểu đoàn vận tải
biển 603, gồm 107 cán bộ, chiến sĩ. Tháng 6-1959, BTTM thành lập Tiểu đoàn 301
vận tải bộ (gồm 440 cán bộ, chiến sĩ, trực thuộc Đoàn 559). Tiểu đoàn nhận nhiệm
vụ khẩn trương “mở đường bí mật ở Đông Trường Sơn vào đến Tây Trị Thiên, nối được
với các căn cứ của Khu 5”[40]
và chỉ sau 3 tháng Tiểu đoàn đã đưa được chuyến vũ khí đầu tiên từ Khe Hó (Tây
Vĩnh Linh) vào Tà Riệp (Tây Thừa Thiên)[41]
Dưới sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, BTTM chủ trương
nhanh chóng tăng cường lực lượng cho Đoàn 559, mở rộng tuyến vận tải Trường Sơn
theo phương hướng kiên trì giữ vững hành lang phía Đông, khẩn trương mở đường vận
tải phía Tây Trường Sơn; đồng thời, mạnh dạn áp dụng phương thức vận tải cơ giới,
kết hợp với phương thức vận tải thô sơ (xe đạp thồ) và chú trọng khai thác đường
sông. Tuy
nhiên, tuyến đường trên bộ chủ yếu vận tải cho các vùng căn cứ, miền rừng, miền
Đông Nam Bộ, hơn nữa, thời kỳ đầu, hiệu quả vận chuyển trên tuyến đường này thấp,
không thể ngay lập tức vươn tới chiến trường Đông Nam Bộ và đồng bằng Nam Bộ -
nơi cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam đang diễn ra quyết liệt từng phút, từng
giây và yêu cầu về vũ khí, về phương tiện
vật chất để chiến đấu, hoạt động trở thành yêu cầu sinh tử; do đó, tháng
7-1959, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy Trung ương quyết định tổ chức tuyến vận tải đường
biển chi viện miền Nam (Đoàn 759). Sau khi phân tích, tổng kết của các chuyến đi thăm dò hai chiều Nam – Bắc, Bắc
– Nam, sau khi khảo sát, điều nghiên kỹ lưỡng, chuẩn bị loại tàu vận tải thích
hợp và lên phương án công tác, cuối cùng tháng 10-1962, tuyến vận tải hết sức đặc
biệt của chiến tranh nhân dân Việt Nam chính thức khai thông. Từ thời điểm đó,
vận tải đường Hồ Chí Minh trên biển được liên tục cải tiến mọi khâu, từ phương
tiện, phương thức, đến đội ngũ và nguyên tắc vận chuyển; nhờ thế, vận hành ngày
càng chủ động, hiệu quả. Trong suốt 14 năm liên tục (1961-1975), những chiến sĩ
bình dị của đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển đã vận hành "1.789
chuyến tàu không số, vận chuyển 150.000 tấn vũ khí trang bị và 80 lượt ngàn cán
bộ, vượt qua hàng vạn hải lý, khắc phục hơn 400 quả thủy lôi, chống chọi hơn 20
cơn bão, chiến đấu 300 lần với tàu địch, đánh trả 1.200 lần máy bay địch tập
kích, bắn rơi 5 chiếc và bắn cháy nhiều tàu, xuồng địch"[42],
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho miền Nam ruột thịt.
* *
*
Suốt 21 năm chiến đấu
gian khổ, cùng với toàn thể dân tộc,
BTTM đã viết lên những chiến công huyền thoại, những kỳ tích lịch sử -
đó là những kỳ tích được làm nên bởi trí tuệ, bởi lòng yêu nước, bởi sức mạnh của
ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và bởi khát vọng hòa bình. Các chủ trương táo bạo, các
quyết định lịch sử mà BTTM đưa ra trong chỉ đạo chiến lược, điều hành chiến
tranh thể hiện sự trưởng thành toàn diện và ngày càng vững chắc. BTTM đã hoàn
thành nhiệm vụ, trọng trách, sứ mệnh của mình, xứng đáng là cơ quan tham mưu đắc
lực về quân sự cho Bộ Thống soái tối cao trong cuộc đụng đầu lịch sử. Từ những
trưởng thành trong mất mát, hy sinh và vinh quang, từ ngày đó cho đến hôm nay,
BTTM không ngừng vươn lên, vững vàng trong từng chặng đường phát triển, hoàn
thành tốt chức năng, nhiệm vụ trong những giai đoạn cách mạng sau này.
[1] Trung tâm lưu trữ
Quốc phòng, phông BTTM, hồ sơ 554.
[2] Tlđd, phông BTTM, hồ
sơ 554 và 539.
[3] Như trên.
[4] Tlđd, phông BTTM, hồ
sơ 554.
[5] Tlđd, phông QUTƯ, hồ
sơ 261.
[6] Như trên.
[7] Tlđd, phông BTTM, hồ
sơ 723.
[8] Tlđd, phông QUTƯ, hồ
sơ 261.
[9] Tlđd, phông QUTƯ, hồ
sơ 345.
[10] Như trên.
[11] Tlđd, phông QUTƯ, hồ
sơ 326.
[12]Tlđd, phông BTTM, hồ
sơ 1150.
[13] Tlđd, phông QUTƯ, hồ
sơ 574
[14] Tlđd, phông QUTƯ, hồ
sơ 760
[15] Tlđd, phông BQP, hồ
sơ 905.
[16]Tlđd, phông BTTM, hồ
sơ 1150.
[17] Bộ Tổng Tham mưu: Tình hình vũ khí, đạn dược, khí tài và
phương tiện, khả năng bảo đảm cho nhiệm vụ sắp tới, Tài liệu lưu trữ, trung
tâm lưu trữ, Bộ Quốc phòng, 1973.
[18] Như trên.
[19] Như trên.
[20] Như trên.
[21] Tlđd, phông BQP, hồ
sơ 907.
[22] Tlđd, phông BTTM, hồ
sơ 694.
[23] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 16, tr. 577.
[24] Tlđd, phông Bộ Tổng
tham mưu, hồ sơ 300, tr. 130
[25] Tlđd, phông BTTM, hồ
sơ 907.
[26] Tlđd, phông QUTƯ, hồ
sơ 334.
[27] Viện Lịch sử quân sự Việt
Nam: Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân
kiểu mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991,
tr. 358.
[28] Như trên.
[29] Bộ Quốc Phòng - Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975,
Tập IV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.370.
[30] Tlđd, phông BTTM, hồ
sơ 846.
[31] Đây là Hiệp nghị
giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc được ký vào tháng 5-1965. Sau
hơn 2 năm giúp Việt Nam, các đơn vị Trung Quốc đã giúp ta hoàn thành và nâng
cấp 271 km đường sắt và công trình phụ trợ; xây dựng mới và sửa chữa 7 tuyến
đường bộ ở vùng núi Tây Bắc có tổng chiều dài 1.200km.
[32] Tuyến đường này xuất phát từ Bình Gia
trên quốc lộ 1B (Lạng Sơn) đi qua các tỉnh Bắc Cạn, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào
Cai tới Sơn La nằm trên quốc lộ 6. Tổng chiều dài 596km, khối lượng đào đắp khoảng
20 triệu m3, có 6 cầu lớn dài 650m (chưa kể phà qua sông Hồng), 2.000
cầu nhỏ, cống, đường theo tiêu chuẩn cấp 3 miền núi.
[33] Tlđd, phông Cục Tác
chiến, hồ sơ 2450.
[34] Tlđd, phông BTTM, hồ
sơ 1161.
[35] Bộ Tổng tham mưu
Quân đội nhân dân Việt Nam: Biên niên sự
kiện Bộ Tổng tham mưu, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr. 208.
[36] Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày tại kỳ họp
thứ IV Quốc hội khóa III, Báo Nhân
dân, ngày 25 – 5 -1968.
[37] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự
Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 –
1975, Tập VII, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2007, tr.343.
[38] Như trên.
[39] Như trên.
[40] Lịch sử Công binh 559 Đường Trường Sơn, Nxb. Quân đội nhân dân,
1999, tr.20.
[41] Biên niên lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Hậu
cần xuất bản, 1992, tr.85.
[42] Mai Thắng,: Đường Hồ Chí Minh trên biển: 50 năm – huyền
thoại một trường ca, Daidoanket.vn, ngày 13-7-2011.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!