Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2014

CÁC NƯỚC LỚN VỚI HỘI NGHỊ GENÈVE (1954)

PGS,TS. Hồ Khang
Những năm 1950-1954, nền chính trị toàn cầu diễn ra những thay đổi đòi hỏi những thực thể của nó phải có chiến lược thích ứng. Sau một chặng đường “ngụp lặn” trong cuộc Chiến tranh Lạnh, các quốc gia của hai cực Đông – Tây đều nghiêng về một xu hướng mới – xu hướng hòa hoãn. Vấn đề đặt ra đối với các nước lớn là cần phải giảm thiểu căng thẳng trong tình hình thế giới, giải quyết các xung đột ở các khu vực khác nhau trên thế giới, trong đó có châu Á.
1- Trong tình hình đó, ngày 28-9-1953, Liên Xô kêu gọi các nước có liên quan tổ chức một hội nghị quốc tế, xem xét, đề xuất các biện pháp giảm thiểu căng thẳng trong tình hình thế giới, giải quyết vấn đề chiến tranh – hòa bình ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. 

Tháng 11-1953, Liên Xô đề nghị tổ chức hội nghị ngoại trưởng bốn nước lớn tại Berlin vào đầu năm 1954 để thảo luận các vấn đề của châu Âu; đồng thời, bàn bạc về việc tổ chức hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề Viễn Đông.
 Ngày 25-1-1954, Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao giữa Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ khai mạc tại Berlin, ra thông báo sẽ triệu tập Hội nghị Genève, bàn giải pháp cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương. Trên nền cuộc chiến tranh Lạnh, Hội nghị Genève trở thành nơi các nước lớn thử nghiệm, cọ sát quan điểm, chính sách đối ngoại. Những nước tham dự Hội nghị đều tiếp cận nó với chương trình nghị sự, nhằm đạt được quyền lợi nhiều hơn so với mục tiêu giải quyết vấn đề Triều Tiên và vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Đưa ra sáng kiến triệu tập Hội nghị Genève, Liên Xô không chỉ đơn thuần quan tâm giải quyết vấn đề Đông Dương (nơi các lợi ích của Liên Xô vào thời điểm đó là không đáng kể), mà còn nhằm mục tiêu xa hơn - dàn xếp một số vấn đề về châu Âu, liên quan, chi phối trực tiếp đến lợi ích chiến lược của Liên Xô; trong đó, vấn đề trọng tâm là lôi kéo Pháp (quốc gia đang muốn níu kéo quyền lợi ở Đông Dương) bác bỏ Khối phòng thủ chung châu Âu (EDC), giữ nguyên hiện trạng châu Âu. Ngoài ra, Liên Xô còn có mục tiêu không để Hội nghị thất bại, vì Mỹ có thể lợi dụng điều đó để mở rộng chiến tranh. Trong vòng xoáy lợi ích nhiều tầng nấc, xuất hiện hai “nhân vật” hữu dụng cho các mục tiêu trung hạn, dàn hạn của Liên Xô: Trung Quốc và nước Pháp.
 Để có thêm đồng minh làm đối trọng với Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô không chỉ tích cực đấu tranh để Trung Quốc tham gia, mà còn chủ trương để Trung Quốc phát huy tác dụng tích cực, thể hiện vai trò chủ động tại Hội nghị. Liên Xô nêu rõ: “Trung Quốc đã trở thành lực lượng quan trọng trong cục diện chính trị thế giới, các hội nghị quốc tế quan trọng nhằm giải quyết các vấn đề châu Á nhất thiết phải có Trung Quốc tham gia”[1]. Về điểm này, Trung Quốc hoàn toàn nhất trí với Liên Xô, bởi hai lý do: Thứ nhất, kể từ sau khi thành lập nước Trung Hoa mới, đây là lần đầu tiên Trung Quốc có mặt tại một hội nghị quốc tế lớn được cả thế giới quan tâm theo dõi – điều đó sẽ rất có lợi trong việc đề cao địa vị quốc tế; thứ hai, nếu đàm phán tiến triển tốt, có thể giải quyết một số vấn đề quốc tế, còn nếu không thành công, cũng có thể tuyên truyền chủ trương của Trung Quốc[2].
Tuy nhiên, đề nghị này của Liên Xô bị Mỹ phản đối quyết liệt. Sau rất nhiều tranh luận và thuyết phục, cuối cùng, ngày 18-2-1954, Hội nghị đồng ý để CHND Trung Hoa tham gia Hội nghị Genève, song Mỹ vẫn kiên quyết tuyên bố: “Việc Mỹ tham gia đàm phán không có nghĩa là Mỹ công nhận chính quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc với bất cứ ý nghĩa nào”[3].
Trong quá trình chuẩn bị cho Hội nghị Genève, Trung Quốc duy trì liên lạc chặt chẽ với Liên Xô. Riêng trong tháng 4-1954, đã diễn ra ba cuộc hội đàm giữa Chu Ân Lai với các nhà lãnh đạo Xô-viết. Chu Ân Lai luôn nhấn mạnh: “Đây là lần đầu tiên Trung Quốc tham gia một hội nghị như vậy, nên thiếu kiến thức và kinh nghiệm đấu tranh quốc tế, do đó Trung Quốc và Liên Xô cần giữ liên hệ chặt chẽ, thường xuyên trao đổi ý kiến, thông tin tình báo, hiệp đồng hành động” [4]. Nhìn chung, trong các cuộc hội đàm, Chu Ân Lai cùng với các nhà lãnh đạo Liên Xô bàn bạc, xác định phương châm, đối sách của hai bên cũng như các hoạt động phối hợp về ngoại giao, nhất trí để Liên Xô soạn thảo phương án cụ thể cho các cuộc đàm phán ở Genève.
2- Áp lực bởi quan điểm về “vai trò bảo vệ thế giới” và “sứ mệnh ngăn chặn làn sóng đỏ”, Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào chiến tranh Đông Dương. Song dù đã đổ lượng vật chất to lớn, yểm trợ người Pháp “ngăn chặn họa cộng sản” ở khu vực này, nhưng “Pháp không thể dùng biện pháp quân sự để tiêu diệt Việt Minh, tình hình Đông Dương đang xấu đi, Cộng sản chiếm vị trí khống chế trong phong trào dân tộc”[5]; do vậy, Mỹ hoàn toàn không hài lòng về hiệu quả chính sách của Pháp. Mỹ không mấy sốt sắng với việc tổ chức Hội nghị Genève, đến Hội nghị với tư cách quốc gia thân hữu của các nước tư bản và với vai trò chủ yếu là quan sát.
Lo lắng cho vị trí cường quốc, Anh e ngại phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Dương tác động đến hệ thống thuộc địa rộng lớn của mình, nên đến Hội nghị với tâm thế ủng hộ nước Pháp và lợi dụng sức mạnh của Mỹ đối phó với Liên Xô.
Trong khi đó Pháp – “nhân vật chính” ở Đông Dương, đang lâm vào một tình thế khó khăn, ngày càng lệ thuộc vào Mỹ. Cuộc chiến giằng co với Việt Minh đã làm bộc lộ rõ thêm những yếu điểm trong hoạt động quân sự của quân đội dày dạn kinh nghiệm chinh chiến và khiến ngân khố nước Pháp thâm hụt trầm trọng.
Nhằm cứu vãn tình hình, hy vọng tìm ''một lối thoát danh dự'', Tướng H. Navarre được cử sang Đông Dương với hy vọng giải quyết cuộc chiến tranh “một cách thể diện”. Tuy nhiên, khi vấn đề Đông Dương ngày càng thuộc về lợi ích quốc tế, còn lợi ích của Pháp ngày càng ít đi, Chính phủ Pháp tìm kiếm cơ hội kết thúc chiến tranh Đông Dương tại Genève thông qua thương lượng trên thế mạnh. Là quốc gia có nhiều quyền lợi nhất được mang ra thương thảo ở Hội nghị Genève, song Pháp đồng thời cũng là nước ở trong tư thế bất lợi về quân sự và ngoại giao. Hy vọng một tư thế đàm phán áp đảo, Pháp tích cực thuyết phục, vận động, tranh thủ sự trợ giúp quân sự trực tiếp của Anh và Mỹ. Tuy nhiên, thái độ hai nước này khá thận trọng.
Bước ra khỏi chiến tranh Triều Tiên, phải đối mặt với hàng loạt khó khăn, Trung Quốc có mục tiêu nhanh chóng ổn định, phát triển, từng bước khẳng định vị trí nước lớn ở khu vực cũng như trên thế giới; vì thế, Hội nghị Genève là một cơ hội hết sức thích hợp. Trong cuốn sách Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, tác giả Dương Khuê Tùng phân tích như sau: “Triều Tiên đình chiến, thái độ của Trung Quốc mới đối với cuộc chiến tranh Đông Dương nhanh chóng trở thành một vấn đề buộc phải cân nhắc. Bởi vì, cũng giống như chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Đông Dương sẽ thực sự trở thành một điểm nóng đối kháng giữa Trung Quốc và Mỹ”[6].
Phân tích yêu cầu, tình thế và khả năng, Chu Ân Lai lên kế hoạch sử dụng diễn đàn Hội nghị Genève như sau: “Ngoài những vấn đề về Triều Tiên và Việt Nam, phải chuẩn bị các vấn đề khác liên quan đến vùng Viễn Đông, đến hòa bình, an ninh ở châu Á. Đặc biệt, phải tiến hành các biện pháp nhằm phát triển quan hệ kinh tế, trao đổi thương mại với các quốc gia khác nhau, làm giảm căng thẳng tình hình quốc tế, phá vỡ sự phong tỏa và cấm vận của đế quốc Mỹ”[7]. 
Nhìn chung, đến Hội nghị Genève, các mục tiêu, lợi ích của “ngũ cường” vừa thống nhất, mâu thuẫn, đối lập. Điều đó khiến cuộc đấu trí, đấu não giữa các nước lớn trên bàn đàm phán Genève kéo dài, căng thẳng, phức tạp.
3- So sánh mục tiêu và tính toán của các nước lớn đối với Hội nghị Genève, có thể nhận thấy rằng, Trung Quốc là nước trông chờ, đón đợi và đặt nhiều hy vọng nhất ở cuộc hội đàm thế kỷ này.
Tích cực chuẩn bị cho “chuyến xuất quân ngoại giao” quan trọng, suốt tháng 3 và nửa đầu tháng 4-1954, Chu Ân Lai đích thân thụ lý, chỉnh sửa và thẩm định các văn bản liên quan đến Hội nghị Genève như “Ý kiến sơ bộ về phương án hòa bình thống nhất Triều Tiên”, “Ý kiến sơ bộ về giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương”…; đồng thời, chuẩn bị nhân sự cho Đoàn Ngoại giao. Ngày 20-4-1954, Đoàn đại biểu gồm hơn 200 người, tập trung nhân tài ưu tú của ngành ngoại giao Trung Quốc khởi hành đi Genève. Đoàn đại biểu Trung Quốc đến bàn đàm phán với tinh thần: “Trung Quốc là một nước lớn, đến Genève tham gia một hội nghị quốc tế chính thức. Chúng ta đứng trên vũ đài quốc tế hát kịch văn. Vì thế, trong kịch văn phải có kịch võ, nhưng nói tóm lại là kịch chính quy, kịch võ đài”[8].
Ngày 26-4-1954, Hội nghị Genève chính thức khai mạc, trùng với thời điểm Quân đội nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi chiến dịch tấn công đợt 2 ở Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ đang là tâm điểm chú ý của thế giới. Tin tức dội về từ Điện Biên Phủ khiến Chu Ân Lai bước vào Hội nghị với gương mặt mỉm cười, còn Ngoại trưởng Pháp Bidault lại có tâm trạng hết sức căng thẳng.
Ngày 27-4-1954, Anh, Mỹ uỷ nhiệm Pháp gặp Liên Xô thỏa thuận về thành phần Hội nghị. Trong cơ cấu Hội nghị, Anh, Pháp, Mỹ loại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhờ sự nỗ lực và kiên định của Liên Xô, ngày 2-5-1954, các nước buộc phải chấp nhận sự có mặt của Việt Nam - Việt Nam có điều kiện tham gia vào một sân chơi lớn, dù chưa được các nước Anh, Mỹ, Pháp công nhận về ngoại giao.
Ngày 4-5-1954, Đoàn Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu tới Genève. Qian Jiang mô tả: “Ông Phạm Văn Đồng đến Genève với nét mặt rạng rỡ. Tin chiến thắng từ mặt trận Điện Biên Phủ liên tiếp báo về làm cho ông tràn đầy hy vọng”[9].
Nhằm hiện thực hóa các mục tiêu đã xác định, tham gia đàm phán, Trung Quốc “cố gắng để người Pháp vẫn có thể giữ một vị trí nào đó ở Đông Dương, không để Mỹ thế chân Pháp”[10]. Ưu tiên hàng đầu của Trung Quốc là “ngăn chặn Mỹ đưa lực lượng quân sự vào Việt Nam, áp sát biên giới Trung Quốc”[11]. Trung Quốc e ngại rằng, sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc, Mỹ tất yếu sẽ dồn sự chú ý nhiều hơn đến Đông Dương, khả năng xảy ra cuộc đụng độ giữa Trung Quốc và Mỹ tại đây tăng lên đáng kể. Một nước Trung Quốc thương tích đầy mình đứng trước nhiệm vụ khôi phục và xây dựng kinh tế hết sức nặng nề không/chưa thể dính líu vào một cuộc xung đột với đối thủ đáng gờm, nặng ký là Mỹ - đó chính là xuất phát điểm quan trọng để ngay từ rất sớm, Chu Ân Lai luôn trung thành với “phương án vĩ tuyến 16” theo mô thức Triều Tiên làm hình mẫu cho Việt Nam, nghĩa là đình chỉ chiến sự mà không có giải pháp chính trị. Để Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận phương án đàm phán, Chu Ân Lai ngỏ ý với lãnh đạo Việt Nam: “Nếu cuộc chiến tranh Đông Dương kéo dài, Mỹ nhảy vào Đông Dương, Việt Nam không thể dựa vào sự giúp đỡ của Trung Quốc để tiến hành chiến tranh”[12]. Nói chung, đến bàn đàm phán với tinh thần “trong rất nhiều vấn đề quốc tế to lớn, đầu tiên là vấn đề châu Á, nếu không có sự tham gia của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đều không giải quyết được”[13], Chu Ân Lai hành động tự tin và tương đối độc lập, từng bước ngồi vào vị trí “người lái” dẫn dắt Hội nghị.
Về phía Liên Xô, trong các cuộc họp trù bị ba bên tại Moscow (Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam), Liên Xô nhanh chóng đồng ý với “chiến lược, chính sách” của Trung Quốc về vấn đề Đông Dương và “ý tứ” của Liên Xô đã được chuyển tải đến Anh, Mỹ từ đầu tháng 3-1954 thông qua các kênh ngoại giao. Có điều, dù theo đuổi cùng lúc nhiều mục đích, song Moscow ôn hòa và thận trọng hơn so với Bắc Kinh.
Toan tính của các nước lớn khiến Hội nghị Genève về Đông Dương diễn ra căng thẳng, gay go, quyết liệt trong suốt 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp. Trong Hội nghị, Liên Xô duy trì chặt chẽ quan hệ với Trung Quốc làm đối trọng, thúc đẩy đàm phán theo những kế hoạch được sắp đặt trước. Hoạt động phối hợp của Liên Xô, Trung Quốc khá ăn ý. Liên quan đến Việt Nam, cả hai nước kiên trì quan điểm chia Việt Nam thành hai miền với vĩ tuyến 16 là ranh giới.
Tình hình nguy cấp tại Điện Biên Phủ khiến Chính phủ Laniel ngày thêm khốn khó. Các đại biểu Quốc hội Pháp liên tiếp chỉ trích Chính phủ chưa cố gắng dồn sức cho việc tìm kiếm hòa bình. Cuối cùng, thời khắc định mệnh đã đến - 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam chiếm Sở Chỉ huy cứ điểm, Tướng Đờ Cát và toàn bộ Bộ Tham mưu bị bắt sống. Điện Biên Phủ thất thủ đã khiến nội tình nước Pháp chia rẽ sâu sắc thêm, Pháp kiếm cách rút lui khỏi Đông Dương, nhiệm vụ cấp bách nhất của phái đoàn Pháp tại Hội nghị Genève là đạt được ngừng bắn càng sớm càng tốt. Thảm bại tại Điện Biên Phủ khiến hy vọng thương lượng trên thế mạnh của Pháp tan vỡ, song nước Pháp vẫn cố tỏ ra cứng rắn.
Anh không có nhiều quyền lợi tại Hội nghị, trong khi hết sức lo ngại xung đột Đông Dương có thể làm bùng phát một cuộc chiến tranh trên quy mô toàn cầu, nên muốn nhanh chóng đi tới thỏa thuận hòa bình, kết thúc cuộc xung đột. Tại Genève, Anh tích cực thực hiện vai trò trung gian hòa giải, hầu như đồng ý hoàn toàn với các ý tưởng Pháp đưa ra. Anh phối hợp khá nhịp nhàng với Pháp, Liên Xô, Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề phức tạp vào các thời điểm gay cấn của Hội nghị.
Ngay từ đầu, Mỹ đã xác định đến Hội nghị với tư cách quốc gia thân hữu của các nước tư bản và chủ yếu với vai trò quan sát để định liệu. Mặc dù không mấy tin tưởng ở Pháp, cho rằng Pháp sẵn sàng “bán đứng Đông Dương”, song Mỹ không thể bỏ mặc Pháp lâm vào thế yếu. Quan điểm của Mỹ là Pháp phải tiến hành đàm phán trên thế mạnh, không vội chấp nhận ngừng bắn. Mỹ phản đối phương án phân vùng và từ giữa tháng 6-1954, tích cực vận động cho một Hiệp ước phòng thủ Đông Nam Á. Chỉ đến cuối tháng 6-1954, Mỹ mới đồng ý với giải pháp chia cắt Việt Nam - đây là lần đầu tiên kể từ cuối năm 1953, Mỹ và Pháp có chung quan điểm về các chính sách đối với Đông Dương. Nhìn chung, lập trường tham gia Hội nghị của Mỹ là bảo đảm ảnh hưởng đối với các quyết định, song không ràng buộc.
Có những động cơ riêng đặt trong bối cảnh cùng tồn tại hoà bình đang trở thành một xu thế lớn chi phối quan hệ quốc tế, các nước đều muốn nhanh chóng chấm dứt xung đột. Diễn biến các phiên đàm phán cho thấy, dường như mọi vấn đề về Đông Dương đã được các nước lớn sắp đặt và quyết định.
Sau nhiều tranh cãi, thảo luận, thoả thuận và thỏa hiệp, cuối cùng, vào 5 giờ 20 phút ngày 21-7-1954, Hội nghị Genève về Đông Dương tuyên bố bế mạc. Hiệp định được thông qua ở Genève nghiêng về kế hoạch của Pháp hơn là của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuy thắng lớn trên chiến trường, song do thiếu kinh nghiệm đàm phán, do thực lực chưa mạnh, nên “chỉ có được một nửa nước Việt Nam trên bản đồ thế giới”[14] với ranh giới là vĩ tuyến 17 (thay cho vĩ tuyến 13 dự liệu ban đầu) và thời hạn hai năm tổng tuyển cử (thay vì 6 tháng như đề nghị), rút hết quân đội khỏi Lào và Campuchia. Campuchia chịu nhiều thiệt thòi, không có căn cứ tập kết, phải phục viên tại chỗ.
Việc Trung Quốc và Liên Xô sắp đặt sẵn với Pháp, Anh một giải pháp về Việt Nam đã làm mất hiệu lực của chiến thắng Điện Biên Phủ. Bảo toàn lợi ích riêng, “cả Liên Xô, Trung Quốc đã tiết chế bớt những yêu cầu của Việt Minh và đóng vai trò quan trọng trong việc dàn xếp thỏa hiệp[15].
Hội nghị Genève kết thúc, Trung Quốc rất hài lòng với Hiệp định không chỉ vì Hội nghĩ đã chứng tỏ rằng, trên phương diện giải quyết những vấn đề quốc tế cấp bách, sự tham gia của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có vai trò quan trọng, mà còn vì “giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương đã làm rối loạn việc triển khai chiến lược của Mỹ nhằm uy hiếp Trung Quốc từ ba chiến tuyến Nam Triều Tiên, Đài Loan, Đông Dương, đảm bảo an ninh cho Trung Quốc ở biên thùy phía Nam, Trung Quốc có thể tập trung sức người, sức của vào phát triển kinh tế"[16].
Rời khỏi Genève, Liên Xô đạt được hầu hết các mục đích. Đồng ý với giải pháp chia cắt Việt Nam, Liên Xô coi đây một phương thức giải quyết các xung đột quốc tế - một phương thức cho phép đảm bảo hòa bình trong một “giai đoạn quá độ” nhất định.
Tuy Pháp bị mất một nửa nước Việt Nam, song củng cố ảnh hưởng tại Lào, Campuchia; đồng thời, rút ra khỏi “cuộc chiến tranh bẩn thỉu”; vì thế, đa phần chính giới Pháp không công kích kết quả Hội nghị.
Sau Hội nghị, Anh bảo lưu quyền tham gia cùng với Mỹ trong một thỏa thuận về bảo vệ an ninh khu vực, cải thiện một bước quan hệ với Trung Quốc, kiềm chế Trung Quốc để không thúc đẩy mạnh chiến tranh du kích ở Malaysia.
 Né tránh, không chịu trách nhiệm và ràng buộc bởi kết quả của Hội nghị Genève, chuẩn bị trước cho khả năng can thiệp vào Đông Dương khi cần thiết, Mỹ từ chối không tham gia vào Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị; đồng thời, đạt thỏa thuận về việc thành lập một tổ chức có tính chất liên minh để bảo vệ an ninh khu vực. Cùng với việc Hiệp định Genève được ký kết, quan hệ Trung - Mỹ cũng thận trọng nhích dần từng bước, hai bên bảo lưu con đường tiếp xúc tại Genève. Đây chính là bước đệm thích hợp để sau này Trung, Mỹ bắt đầu tiến hành cuộc đàm phán cấp đại sứ.
*                             *
*
Như vậy, nội dung bản Hiệp định Genève đảm bảo lợi ích cho các nước lớn tham gia, đặc biệt là Trung Quốc, song mang lại lợi ích hạn chế đối với người chiến thắng. Wilfred Burchett nhận xét: “Thực tế Việt Nam là người chiến thắng không thể tranh cãi, nhưng đã “rộng lượng” nhân nhượng nhiều nhất ở Genève”[17]. Thật vậy, Việt Nam tuy thắng lớn trên chiến trường, song do thiếu kinh nghiệm đàm phán, do thực lực chưa mạnh và chưa có sự ủng hộ đầy đủ của các nước đồng minh, nên “chỉ có được một nửa nước Việt Nam trên bản đồ thế giới”[18].
Tuy là kết quả của một cuộc hoà giải không vững chắc, Hiệp định Genève đã góp phần kết thúc chiến tranh ở Đông Dương. Việt Nam giành được sự công nhận và cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản, một nửa đất nước hoàn toàn giải phóng. Chưa phản ánh đầy đủ thắng lợi quân sự của Việt Nam, không bịt được kẽ hở tạo khả năng cho Mỹ vào Đông Dương, Hiệp định Genève là một giải pháp tình thế, một khoảng nghỉ cần thiết trong một “giai đoạn quá độ”, một phương thức giải quyết các xung đột quốc tế cho phép đảm bảo hòa bình để Việt Nam có thể bước tiếp những năm tháng đầy khó khăn, thách thức sau này.



[1] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference,  Beijing: History of CPC Press, 2005, p.20.

[2] Ibid, p.24.

[3] Tạ Ích Hiển (chủ  biên): Lịch sử ngoại giao Trung Quốc đương đại (1949-2001), Bản dịch của Tổng cục 2, lưu tại Tổng cục 2, tr.55.

[4] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.36.

[5] U.S. Policy toward Southeast Asia (NSC 51), dated 1 July 1949, Harry S. Truman Library, Independence, Missouri, p. 137.
[6] Dương Khuê Tùng: Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, tập 2, Nxb. Nhân dân Giang Tây, 2008, bản dịch Quốc Thanh.
[7] Preliminary Opinions on the Assessment of and Preparation for the Geneva Conference,' Prepared by the PRC Ministry of Foreign Affairs (drafted by PRC Premier and Foreign Minister Zhou Enlai) [Excerpt]" March 02, 1954, History and Public Policy Program Digital Archive, PRC FMA 206-Y0054, CWIHP.

[8] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.50.

[9] Ibid, p. 110.
[10] Qiang Zhai: China and Vietnam Wars, 1950-1975, Chapel Hill, Univ. of North Carolina Press, 2000, p.50.
[11]Allen Kempton: The People’s Republic of China and Vietnam: A Complex RelationshipEssay Prize in History,
2012, p.5.
[12]  Ilya V. Gaiduk: From Berlin to Geneva: Soviet Views on the Settlement of the Indochina Conflict (January-April, 1954), International Workshop on New Evidence on China, Southeast Asia and the Vietnam War , Hong Kong, les 11-12 janvier 2000, p.3.
[13] Tạ Ích Hiển (chủ  biên): Lịch sử ngoại giao Trung Quốc đương đại (1949-2001), Sđd, tr.55.
[14]Christopher E. Goscha: Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945–1950), Journal of Vietnamese Studies, Vol I, N0 1-2, (February, August), 2006, p.15.

[15] George C. Herring: America's Longest War: The United States and Vietnam, 1950-1975 with Poster (4th Edition), McGraw-Hill Higher Education, November 2001, p.28.

[16] Bộ Ngoại giao: Hội nghị Giơnevơ và quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh - lấy Trung Quốc, Việt Nam và Trung Quốc làm ví dụ, Hội thảo nội bộ ngành "Hiệp định Giơnevơ: 50 năm nhìn lại", ngày 27-7-2004, tài liệu không phổ biến, lưu tại Bộ Ngoại giao, tr.3.
[17] Burchett, George and Shimmin, Nick: Memoires of A Rebel Journalist: The Autobiography of  Wilfred Burchett, University of New South Wales Press, Sydney, New South Wales, 2005, p.199.
[18]Christopher E. Goscha: Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945–1950), p.38.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!