Thứ Ba, 8 tháng 12, 2015

MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG VIỆT NAM VỚI VIỆC XÂY DỰNG, MỞ RỘNG VÙNG GIẢI PHÓNG (1960-1969)

PGS.TS. Hồ Khang,
 Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
Sau khi Hiệp định Geneve được ký kết (7-1954), Đảng LĐVN chủ trươngthi hành triệt để Hiệp định đình chiến (tập kết quân đội, rút quân ra Bắc... Đấu tranh đòi Pháp phải thi hành đúng Hiệp định"[1]. Tuy nhiên, đến giữa năm 1956, Việt Nam Cộng hòa đã từ chối Tổng tuyển cử, tiến hành nhiều biện pháp chống cộng quyết liệt. Lúc này, khả năng thực hiện các điều khoản chính trị của Hiệp định Giơnevơ hầu như không còn tồn tại, cách mạng miền Nam rơi vào tình thế hết sức khó khăn, yêu cầu chuyển hướng đấu tranh đặt ra cấp thiết- thời điểm này hết sức cần những quyết sách đúng đắn, kịp thời.

1- Trước những đòi hỏi của tình hình, tháng 6-1956, Bộ Chính trị họp và ra Nghị quyết “Về tình hình, nhiệm vụ và công tác miền Nam”, nêu rõ cần thành lập một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống Mỹ - Diệm cho miền Nam, Mặt trận đó phải "đoàn kết bất cứ người nào đoàn kết được, trung lập bất cứ người nào có thể trung lập được"[2].
Trên cơ sở thực tiễn cách mạng miền Nam, tháng 8-1956, Uỷ viên Bộ Chính trị Lê Duẩn soạn thảo “Đường lối cách mạng miền Nam”, xác định nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là “đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Mỹ - Diệm, thực hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính chất dân tộc độc lập, để giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc phong kiến độc tài phát xít Mỹ  - Diệm để cùng với toàn quốc thực hiện hoà bình, thống nhất, độc lập dân tộc”[3]. Thực hiện nhiệm vụ lịch sử đó, Đường lối cách mạng miền Nam khẳng định cần thiết phải xây dựng một mặt trận dân tộc có tính giai cấp rõ ràng, đồng thời phải bao hàm các lực lượng yêu nước, tiến bộ trong dân tộc, đặt quyền lợi Tổ quốc lên trên hết, tránh “tả khuynh” cô độc, hẹp hòi, nhằm tập hợp mọi lực lượng để chống kẻ thù chung- đây là “một nhiệm vụ quan trọng của Đảng ta hiện nay để chiến thắng quân thù”[4].
Trong khi đó, chính sách chống cộng của Mỹ - Diệm đã khiến cách mạng miền Nam chịu nhiều tổn thất. Đến năm 1959, nhiều xã không còn chi bộ, cả Nam Bộ chỉ còn 5.000 đảng viên; ở đồng bằng  Liên khu V, 70% chi uỷ viên, 60% huyện uỷ viên, 40% tỉnh uỷ viên bị địch bắt, giết; 12 huyện không còn cơ sở đảng; có tỉnh chỉ còn một chi bộ Đảng. Đến năm 1959, ở miền Nam có gần nửa triệu người bị bắt, bị tù đầy và gần 7 vạn người bị giết hại. Cách mạng miền Nam đứng trước những thử thách cực kỳ nghiêm trọng. Trước tình hình đó, đáp ứng yêu cầu của cách mạng miền Nam, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (khoá II) của Đảng LĐVN được tổ chức (1-1959) và ra nghị quyết lịch sử, phân tích sâu sắc thái độ của các giai cấp, tầng lớp (công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ), các dân tộc thiểu số, các tín đồ tôn giáo, binh lính trong quân đội miền Nam. Trên cơ sở đó, Nghị quyết chỉ ra khả năng tập hợp ngày càng đông đảo các lực lượng yêu nước, dân chủ ở miền Nam trong một mặt trận dân tộc thống rộng rãi trên cơ sở liên minh công nông, do Đảng lãnh đạo, nhằm cô lập đến cao độ và đánh đổ chế độ Ngô Đình Diệm.
 Xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là "đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà"[5], Hội nghị Trung ương 15 chủ trương thành lập một mặt trận riêng cho miền Nam. Mặt trận đó "phải rất rộng rãi, phải đoàn kết tất cả các dân tộc đa số và thiểu số, các đảng phái các tôn giáo và những cá nhân yêu nước, đoàn kết với ngoại kiều, đặc biệt là Hoa kiều; không phân biệt chủng tộc, tôn giáo chính kiến, điều cố yếu là chống Mỹ - Diệm, tán thành tự do dân chủ, cải thiện dân sinh và hoà bình thống nhất Việt Nam"[6].
Nghị quyết 15 như mồi lửa ném vào đống củi khô, làm bùng phát một phong trào đấu tranh mạnh mẽ và rộng khắp miền Nam- phong trào "Đồng khởi" làm xoay chuyển tình hình và mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. "Đồng khởi” đã đánh một đòn quyết định làm vào chiến lược Aixenhao, đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế thế tiến công. Bước ngoặt của cách mạng miền Nam đòi hỏi  phải có một tổ chức cách mạng có đường lối đấu tranh phù hợp với đặc điểm tình hình miền Nam, có khả năng đứng ra động viên, tổ chức toàn thể nhân dân đoàn kết lại đặng hoàn thành công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Nhấn mạnh lại và làm rõ thêm nhiều điểm trong nội dung Nghị quyết Trung ương 15, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) khẳng định quá trình thực hiện nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là quá trình tập hợp, đoàn kết, tổ chức và phát triển các lực lượng đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Đại hội III Đảng LĐVN nhấn mạnh một lần nữa nhiệm vụ “thực hiện một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống Mỹ - Diệm”[7] ở miền Nam.
Thực hiện Nghị quyết 15 và Nghị quyết Đại hội III, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) ra đời (12-1960), chủ trương "đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và thân sĩ yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị"[8] trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước. Với Tuyên ngôn, Chương trình hành động 10 điểm, MTDTGPMNVN chính thức trở thành người đại diện cho nhân dân miền Nam, giương cao ngọn cờ đoàn kết, tiên phong trong cuộc đấu tranh đầy hi sinh gian khổ trên con đường đi tới độc lập, thống nhất.
2- Từ khi MTDTGPMNVN được thành lập, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam phát triển về quy mô khắp các vùng nông thôn, đồng bằng rừng núi và đô thị. Ở nhiều vùng của nông thôn Nam Bộ và rừng núi miền Nam Trung Bộ, nhân dân đã vùng lên phá thế kìm kẹp của địch, hình thành vùng giải phóng. Thực hiện Cương lĩnhChương trình hành động 10 điểm, lúc này, Mặt trận tồn tại, phát triển với tư cách là chính quyền cách mạng, hoặc đại diện cho chính quyền cách mạng, đảm nhận chức năng của bộ máy chính quyền, có thêm trách nhiệm quản lý một vùng giải phóng rộng lớn. Xây dựng, phát triển vùng giải phóng trên mọi phương diện, hình thành chế độ tự quản của nhân dân trở thành một trong những nhiệm vụ đặc biệt và hàng đầu của Mặt trận.
Từ tháng 12-1960, dưới sự lãnh đạo của MTDTGPMNVN, cuộc sống mới nảy nở ở những vùng giải phóng, các cải cách dân chủ trong đó có chính sách ruộng đất được thực hiện, khẩu hiệu “người cày có ruộng” trở thành hiện thực ở nhiều nơi. Nhận thức rõ rằng, xây dựng vùng giải phóng toàn diện về kinh tế, chính trị, quốc phòng  là  nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, lực lượng vững chắc chủ động đối phó với đối phương, chỉ có xây dựng được kinh tế phát triển thì mới đảm bảo được đời sống của nhân dân, mới có cơ sở để giải quyết hậu cần tại chỗ, có cơ sở vật chất để tổ chức vùng kinh tế lấn sâu vào vùng kinh tế địch, Mặt trận phát động phong trào tăng gia sản xuất, bảo vệ mùa màng, tăng cường chỉ đạo xây dựng cho được nền kinh tế vững mạnh thật sự ở vùng giải phóng. Dưới ngọn cờ của MTDTGPMNVN, nhân dân các vùng giải phóng đẩy mạnh tăng gia, sản xuất, thực hiện tự cung, tự cấp, cung ứng một phần nhu cầu về lương thực, thực phẩm; đồng thời, góp sức, góp phần nuôi quân đánh giặc. Mặt trận chủ trương trao đổi lưu thông hàng hoá giữa các vùng giải phóng với các vùng bị tạm chiếm, triệt để khai thác các nguồn vật chất trong dân, các loại vật tư thiết yếu từ các cơ sở của quần chúng yêu nước trong vùng địch kiểm soát. Trong vùng địch tạm chiến, tuỳ theo tình hình từng vùng, từng thời kỳ, Mặt trận triển khai phù hợp cuộc đấu tranh kinh tế với địch, hạn chế và phá các kế hoạch vơ vét lúa gạo; khai thác nhân, vật lực, làm thất bại âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của đối phương, coi đây là một mặt trận đấu tranh không kém phần quan trọng, đặc biệt là đối với những chiến trường trù phú như ở Đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, từ năm 1965, miền Bắc đã gửi cán bộ thuộc nhiều lĩnh vực như tuyên giáo, giáo dục, y tế, văn hoá... vào miền Nam để hỗ trợ Mặt trận trong bảo vệ, xây dựng vùng giải phóng. Sự hỗ trợ này của miền Bắc cùng với những nỗ lực to lớn của Mặt trận đã góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt vùng giải phóng, cuộc sống ở đó đơm hoa, khởi sắc.
Trong thế xen cài giữa vùng giải phóng và vùng địch kiểm soát, cùng với Trung ương Cục miền Nam, MTDTGPMNVN chỉ đạo mở rộng vùng giải phóng, bao gồm những cơ sở cách mạng, căn cứ, khu du kích, vùng căn cứ được xây dựng thành hậu phương tại chỗ của cách mạng miền Nam thành địa bàn triển khai các lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị một cách hợp lý trên khắp các vùng chiến lược. Trong thế phát triển đi lên của cách mạng miền Nam, tư tưởng chỉ đạo chung ở các vùng giải phóng và trên chiến trường là phải “vừa tiến công, vừa xây dựng; tiến công để xây dựng, củng cố và mở rộng vùng giải phóng; xây dựng để tiếp tục đẩy mạnh thế tiến công quyết liệt với địch, giành thắng lợi lớn nhất”. “Đoàn kết giết giặc và sản xuất” vừa là mục tiêu, vừa là phương châm hành động của MTDTGPMNVN trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của nhân dân vùng giải phóng.
Phục vụ mục tiêu đánh thắng “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, MTDTGPMNVN đã công bố bức thư tố cáo chính sách xâm lược vũ trang của Mỹ, một lần nữa kêu gọi tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, các tổ chức, các khuynh hướng đoàn kết lại một cách rộng rãi để đánh bại bọn xâm lược Mỹ ; đồng thời,  đề ra bốn chủ trương cứu nước khẩn cấp[9].
Hiện thực hóa bốn chủ trương cứu nước khẩn cấp, ở vùng giải phóng, Mặt trận tập trung phát động quần chúng, đẩy mạnh phong trào chống phi pháo, chống gom dân, lập ấp… đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tiết kiệm, xây dựng xã ấp chiến đấu, củng cố các tổ chức quần chúng phát huy vai trò làm chủ của nông dân ở vùng nông thôn; kiên quyết bảo vệ quyền lợi ruộng đất cho dân…. Đối với vùng tranh chấp, Mặt trận phát động nông dân liên tục nổi dậy khởi nghĩa phá ấp chiến lược, diệt ác phá kìm, giải phóng đến đâu chia ngay ruộng đất cho dân đến đó; xây dựng và củng cố xã ấp, các tổ chức chính trị như chi bộ Đảng, nông thôn, phụ nữ…”.
Thực hiện chủ trương "tìm mọi cách để tuyên truyền, giáo dục cho ngụy quân hiểu rõ nhiệm vụ của họ là quay súng trở về với nhân dân, cùng nhân dân đánh đổ chế độ Mỹ-Diệm”[10] và chủ trương “tăng cường tổ chức binh vận từ trên xuống đến xã. Dùng mọi mối liên hệ với các giai đình binh lính, của các giới”[11], Mặt trận cùng Vụ Binh vận trực thuộc Ban Thống nhất Trung ương hình thành nhiều bộ phận chuyên trách như tuyên truyền, tổ chức đấu tranh, xây dựng quản lý nội tuyến, đội vận động sĩ quan… MTDTGPMNVN, Ban Binh vận tập trung vân động, thuyết phục và tổ chức cho nhân dân lợi dụng thế hợp pháp đấu tranh trực diện không cho địch dồn dân lập ấp, vận động gia đình binh sĩ giáo dục con em không thực hiện các hành động tội ác; đẩy mạnh xây dựng cơ sở nội tuyến trong lực lượng dân vệ, thanh niên, phá địch từ bên trong và làm nội ứng cho lực lượng từ bên ngoài đánh vào. Trên cơ sở Cương lĩnh, Mặt trận cho công bố các chính sách đối với tù binh, hàng binh, nghĩa binh, chính sách đối với đơn vị theo cách mạng, chính sách đối với những đơn vị ly khai Diệm. Mặt trận đẩy mạnh tuyên truyền về việc hoan nghênh, khen thưởng, giúp đỡ làm ăn, sắp xếp công tác cho cá nhân hoặc từng nhóm, từng đơn vị làm binh biến, nếu cả đơn vị tình nguyện theo cách mạng sẽ được giữ nguyên biên chế; đối với những đơn vị có khuynh hướng chính trị hòa bình, trung lập ly khai Diệm, nhưng chưa hoàn toàn tán thành Cương lĩnh Mặt trận, thì liên hiệp hành động, giúp đỡ với điều kiện cùng chống Mỹ-Diệm. Bên cạnh đó, Mặt trận cũng chỉ đạo hướng dẫn các cấp, các địa phương, các ban ngành, đoàn thể như Thanh vận, Phụ vận, Nông vận, Trí vận, Hoa vận… kết hợp công tác dân vận với công tác binh địch vận, giao trách nhiệm cho từng đoàn viên, hội viên kết hợp với phong trào đấu tranh của quần chúng để vận động binh lính, sĩ quan.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam, của Mặt trận, phong trào phá ấp chiến lược, công tác binh vận ngày càng tăng, hiệu quả cao: Năm 1961 có 33,8 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị, có 11 triệu lượt người tham gia phá ấp chiến lược, đặc biệt ở thành thị có 31,5 vạn người xuống đường đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Năm  1962, số người ở thành thị tham gia đấu tranh tăng lên thành 67,8 vạn, hỗ trợ cho 2,7 triệu người từ nông thôn kéo vào thành thị đấu tranh. Năm 1963, hưởng ứng phong trào “thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”, có 34 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị, phá ấp chiến lược. Nhờ nỗ lực của Trung ương Cục miền Nam, của Mặt trận, vùng giải phóng không chỉ được củng cố, tăng cường mà còn không ngừng mở rộng, còn ở các vùng tranh chấp, đa phần nhân dân một lòng hướng về cách mạng, làm hậu thuận, nội ứng cho cách mạng. 80% ấp chiến lược nằm trong “quốc sách” của đế quốc Mỹ và tay sai bị nhân dân miền Nam phá vỡ. Trên 2/3 lãnh thổ miền Nam có trên một nửa triệu dân được sống trong vùng tự do, dưới quyền kiểm soát thực tế của MTDTGPMNVN.
Sau một thời gian hoạt động, thanh thế của MTDTGPMNVN không ngừng được khuếch chương, uy tín của Mặt trận ngày càng cao – thực tế đó đặt ra yêu cầu tập hợp rộng rãi hơn nữa các lực lượng dân tộc ở miền Nam vào Mặt trận. Chỉ thị “Về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam” (1-1961) của Bộ Chính trị nêu những khả năng mới tăng cường, mở rộng đoàn kết, tập hợp lực lượng dựa trên sự chuyển biến thái độ chính trị của các giai tầng xã hội miền Nam theo hướng ngày càng "thuận lợi cho việc tập hợp thêm lực lượng mới chống Mỹ-Diệm và cho việc mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất ở miền Nam để cô lập Mỹ-Diệm hơn nữa”[12]; từ đó, khẳng định “cần mở rộng Mặt trận dân tộc giải phóng”[13].
Xác định mở rộng MTDTGPMNVN khắp mọi nơi và xây dựng cho được mặt trận ở bên trên (tỉnh, miền, Trung ương) cũng đồng thời là hình thức phát triển chính quyền cách mạng rộng khắp, Hội nghị lần thứ nhất (mở rộng) của Trung ương Cục miền Nam (10-1961) đề cập một cách cơ bản, có hệ thống các vấn đề về Mặt trận thống nhất ở miền Nam. Hội nghị chủ trương đẩy mạnh công tác mặt trận, dân vận, củng cố khối liên minh công nông, tăng cường tổ chức, giáo dục, bồi dưỡng quần chúng công nông, đồng thời mở rộng tổ chức và ảnh hưởng của Mặt trận trong các tôn giáo và tầng lớp trên, xúc tiến thành lập Uỷ ban mặt trận các cấp, nhất là Trung ương và tỉnh.
Quán triệt chủ trương nói trên, từ ngày 16-2 đến 3-3-1962, tại vùng KàTum (Tây Ninh), Đại hội MTDTGPMNVN họp lần thứ nhất. Đại hội là một sự kiện chính trị quan trọng, góp phần tăng cường khối đoàn kết của nhân dân miền Nam trong sự nghiệp chống Mỹ. Sau Đại hội, phạm vi và ảnh hưởng hoạt động của Mặt trận ngày càng mở rộng. Mặt trận đã tổ chức lãnh đạo nhân dân miền Nam kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, làm công tác binh vận cả nông thôn và thành thị, mở rộng vùng giải phóng. Ở vùng giải phóng, Uỷ ban Mặt trận các cấp đã được thành lập, chuyển sang làm chức năng của chính quyền cách mạng, có nhiệm vụ đoàn kết, tổ chức nhân dân chiến đấu, sản xuất và xây dựng cuộc sống mới. Đến 10-1962, tất cả các miền (Trung Trung bộ, Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ, Sài Gòn – Gia Định, Trung Nam bộ, Tây Nam bộ) đều có Uỷ ban Mặt trận[14]. Trong số "41 tỉnh thành, từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau thì 38 tỉnh thành đã có Uỷ ban Mặt trận ra mắt nhân dân” [80; tr. 200] và “uy tín của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng thêm to lớn trong quần chúng nông thôn cũng như thành thị”[15]. Cùng với sự phát triển của cuộc kháng chiến, Uỷ ban nhân dân giải phóng cũng được thành lập ở nhiều vùng ven đô thị và cả trong lòng các đô thị. Tại nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam, Chính quyền Diệm không còn tồn tại thay vào đó, người dân chỉ biết có “Chính phủ bí mật” (tức Uỷ ban Mặt trận ở các địa phương), tồn tại song song hoặc thay thế nhiều cấp Chính quyền Diệm. Đặc biệt, từ sau khi Trung ương Cục miền Nam và Ủy ban Trung ương MTDTGPMNVN ra Chỉ thị “Tích cực, khẩn trương, củng cố, xây dựng, phát triển chính quyền cách mạng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã, ấp” (29-2-1968) và Chỉ thị “Ra sức xây dựng chính quyền cách mạng các cấp theo kịp sự phát triển của tình hình” (25-5-1968), thì việc lập chính quyền cách mạng càng được nhân dân hưởng ứng rộng rãi. Chỉ sau 6 tháng thực hiện các chỉ thị trên, chính quyền cách mạng ở các cấp được xây dựng rộng rãi. Theo số liệu chưa đầy đủ, đã có tới 516/1800 xã được xây dựng chính quyền; chính quyền cấp huyện được xây dựng trong 21/170 huyện; 3/44 tỉnh (Cà Mau, Gia Lai, Mỹ Tho) đã có chính quyền[16] [117; tr. 412]. “Chính quyền cách mạng được thành lập một cách dân chủ dưới bom đạn ác liệt của quân thù” và “thật sự đem lại cho đồng bào quyền dân chủ, dân sinh, quyền sống tự do, bình đẳng, quyền được thương yêu đùm bọc lẫn nhau, sống với nhau đầy tình người”[17].
Việc việc xây dựng, mở rộng, tăng cường vùng giải phóng, miền Nam đã có vùng giải phóng rộng lớn, có lực lượng vũ trang cách mạng lớn mạnh, có lực lượng chính trị hùng hậu thống nhất trong mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi – điều kiện đã chín muồi cho việc thành lập chính quyền Trung ương. Năm 1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời với Mặt trận Dân tộc giải phóng làm nòng cốt – đó là kết quả của quá trình hoàn chỉnh hệ thống chính quyền, đồng thời, đánh dấu bước phát triển mới của mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mỹ và tay sai ở miền Nam. Cũng từ thời điểm này, lịch sử hoạt động của Mặt trận lật sang một trang mới- sát cánh cùng Chính phủ Cách mạng lâm thời thực hiện các chủ trương lập chính quyền cách mạng, thi hành những cải cách dân chủ, mở rộng vùng giải phóng. Tính đến 25-6-1969, trong số 44 tỉnh miền Nam Việt Nam “đã có 34 tỉnh và 4 thành phố đã bầu xong Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh và thành phố từ cơ sở lên”[18]. Thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”, dưới sự chỉ đạo của Mặt trận và chính quyền cách mạng, từ năm 1965 đến năm 1973, đã chia cấp thêm 15.000 ha ruộng đất cho nông dân ; nhờ đó, về cơ bản, “nông dân vẫn giữ được quyền làm chủ ruộng đất từ “Đồng khởi” cho đến ngày giải phóng”[19].
3- Quá trình phát triển của cuộc chiến tranh giải phóng ở miền Nam Việt Nam là quá trình vận động từ thấp lên cao; từ chiến tranh du kích phát triển lên chiến tranh chính quy. Chính vì vậy, từ sau khi ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng LĐVN, cùng với việc xây dựng và mở rộng các khu du kích, căn cứ du kích, Mặt trận chủ trương  phải tạo ra được những vùng giải phóng tương đối rộng lớn và hoàn chỉnh - nơi đó được triển khai xây dựng một cách toàn diện cả về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hoá, xã hội; bảo đảm được sự ổn định và vững chắc để có thể đáp ứng được những nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của chiến tranh.
Quán triệt và thực hiện tốt xây dựng căn cứ địa-hậu phương về chính trị dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của MTDTGPMNVN thực chất là công cuộc vận động nhân dân, xây dựng căn cứ lòng dân. Thực hiện nhiệm vụ phức tạp song hết sức cấp thiết đó, Mặt trận đã xác định đúng đắn vai trò to lớn của quần chúng nhân dân; xác định rõ phương thức, phương pháp lôi cuốn, tập hợp nhân dân tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng, bảo vệ căn cứ địa-hậu phương, xây dựng chế độ mới trong chiến tranh. Hiểu rõ rằng, muốn lôi cuốn, tập hợp được nhân dân cần phải có một đường lối chính trị đúng đắn, hợp lòng dân, đường lối chính trị ấy phải có cơ sở vững chắc – chỉ khi đó mới quy tụ, cố kết lòng dân. Đường lối của Mặt trận với nội dung cốt lõi “phải HOÀ BÌNH ! phải độc lập ! phải dân chủ! Phải cơm no áo ấm! Phải Hoà bình Thống nhất Tổ quốc !” đã đáp ứng đúng nguyện vọng thiết tha cấp bách nhất của toàn thể nhân dân miền Nam, trở thành ý chí sắt đá, sức mạnh phi thường thúc đẩy toàn thể đồng bào kết thành hàng ngũ, kiên quyết đứng lên đấu tranh vì độc lập, tự do,vì quyền lợi tối cao của Tổ quốc.
Bên cạnh đó, động viên sức dân để xây dựng căn cứ địa-hậu phương chiến tranh, xây dựng, mở rộng vùng giải phóng, xây dựng chế độ mới trong chiến tranh cách mạng, Mặt trận đã tập trung củng cố sức dân, chăm lo đến đời sống nhân dân – đó chính là sự kế thừa và phát triển tư tưởng “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc” của cha, ông. Chính sách kinh tế kháng chiến  đã góp phần đáng kể cải thiện, nâng cao đáng kể đời sống vật chất, tinh thần của người dân tại các vùng giải phóng, khu căn cứ. Tư tưởng dựa vào dân, chăm lo bồi dưỡng sức dân, phát huy sức mạnh tổng hợp to lớn của nhân dân mà Mặt trận đã thực hiện nhất quán trong toàn bộ quá trình lãnh đạo xây dựng, mở rộng vùng giải phóng đã mang lại hiệu quả to lớn và thiết thực. Trong những chặng đường đấu tranh gian khổ, chiến đấu kiên cường, anh dũng, nhìn chung lại, đó những kinh nghiệm quý báu mà MTDTGPMNVN để lại từ thực tiễn sôi động và chúng vẫn còn nguyên giá trị soi rọi cho ngày hôm nay.






[1] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.274.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.226.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Sđd, tr. 787.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Sđd, tr. 821.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 81.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 87.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Sđd, tr. 920.
[8] Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam : Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961, tr.7.
[9]Đế quốc Mỹ phải đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam; giải tán toàn bộ “ấp chiến lược”; thành lập ở miền Nam một chính phủ liên hiệp dân tộc; thực hiện đường lối ngoại giao hoà bình trung lập.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Sđd, tr. 167.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Sđd, tr. 168.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Sđd, tr. 156.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Sđd, tr. 163.
[14] Trần Văn Giàu : Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1966,tr.198.
[15] Trần Văn Giàu : Miền Nam giữ vững thành đồng, Sđd, tập 2, tr.198.
[16] Cao Văn Luận : Bên dòng lịch sử, Nxb Trí Dũng, Sài Gòn, 1972, tr.412.
[17] Nguyễn Văn Linh và tập thể tác giả : Chung một bóng cờ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.412.
[18] Trần Văn Giàu : Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 5, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978,tr. 242
[19] Lâm Quang Huyên : Cách mạng ruộng đất ở miền Nam Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 132.

1 nhận xét:

  1. Cảm ơn Thầy rất nhiều vì những công trình nghiên cứu đầy tâm huyết và hữu ích Thầy đã chia sẻ trên http://nghiencuulichsu.blogspot.com
    Kính chúc Thầy luôn khỏe và tiếp tục có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử chiến tranh hơn nữa!

    Trả lờiXóa

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!