Nguyễn Văn Trí*
Viện trợ quân sự của Trung Quốc và Liên Xô cho
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 là vấn đề đã
được quan tâm nghiên cứu nhiều. Song, đến nay, vấn đề này vẫn còn nhiều điều cần
nghiên cứu, làm rõ. Người ta chưa xác định được số lượng cũng như chủng loại vũ
khí, trang bị mà hai nước ấy viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến
dịch lịch sử đó[1];
người ta phát hiện hai nước Trung Quốc và Liên Xô có những giới hạn về viện trợ
vũ khí cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến dịch Điện Biên Phủ nhưng chưa đưa
ra được lý giải thỏa đáng[2].
Góp phần giải quyết những vấn đề trên, trong bài viết này chúng tôi tập trung
tìm hiểu viện trợ quân sự của Trung Quốc và Liên Xô cho Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
Chúng
ta biết rằng, sau khi Hiệp định đình chiến Triều Tiên được ký kết (27/7/1953),
các nước lớn muốn giải quyết vấn đề Đông Dương bằng con đường thương lượng. Tháng
2 năm 1954, bốn nước lớn (Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ) nhất trí triệu tập Hội nghị
Geneva vào tháng 4 năm 1954 để tiếp tục giải quyết vấn đề Triều Tiên và vãn hồi
hòa bình ở Đông Dương. Trung Quốc cùng các nước liên quan ở Đông Dương được mời
tham gia hội nghị đó.
Tiến
tới hội nghị Geneva về Đông Dương, hai nước Liên Xô và Trung Quốc chủ trương thỏa
hiệp, chia cắt Việt Nam (như trường hợp Triều Tiên) để đi đến thỏa thuận. Ngược
lại, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại hướng tới một giải pháp đảm bảo thắng lợi trọn
vẹn khi khẳng định mục tiêu đàm phán là đi đến “độc lập thực sự”. Trả lời nhà
báo Thụy Điển ngày 26 tháng 11 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là
Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực sự của nước Việt Nam”[3]
(N.V.T nhấn mạnh). Chính trên lập trường này và trước thực tế Pháp, Mỹ gia tăng
nỗ lực chiến tranh[4],
tháng 12 năm 1953, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho rằng “điều kiện thương lượng hòa bình chưa chín muồi”[5] (N.V.T nhấn mạnh) và nhiệm vụ trung tâm
của đất nước lúc này không phải là đàm phán, thương lượng mà là đẩy mạnh kháng chiến và cải cách ruộng đất[6].
Quan
điểm và thái độ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về cuộc thương lượng sắp tới ở
Geneva như thế không làm cho Liên Xô, Trung Quốc hài lòng. Họ tìm cách tác động
để phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quan điểm đàm phán gần với quan điểm của
mình hơn. Đúng lúc này, để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và tạo lợi thế
cho cuộc đàm phán sắp tới ở Geneva, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở chiến dịch Điện
Biên và đề nghị hai nước Bạn viện trợ quân sự phục vụ cho chiến dịch đó. Trong
tình hình đó, viện trợ quân sự được Trung Quốc và Liên Xô dùng làm công cụ để
thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quan điểm đàm phán gần với quan điểm của
họ hơn. Theo đó, hai nước đều chủ trương hạn
chế viện trợ quân sự cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Liên Xô chủ trương không
viện trợ vũ khí cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1954. Đề nghị viện trợ xe vận
tải của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tháng 1 năm 1954 được Liên Xô đồng ý bởi việc
đó không phải là đòi hỏi về vũ khí[7].
Về phía Trung Quốc, trong khi tiếp tục giúp công tác tham mưu, cung cấp hàng
quân nhu, quân lương, vận tải, thông tin liên lạc, họ chỉ đồng ý đáp ứng một phần nhu cầu về vũ khí, đạn dược của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Cụ thể, về súng, Trung Quốc đồng ý viện trợ cho Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa 6.670 khẩu súng trường trong số 15.500 khẩu đề nghị; con số tương ứng
đối với súng trung liên là 540/954 khẩu, đại liên là 108/181 khẩu, cối 60mm là
180/287 khẩu, cối 82mm là 82/100 khẩu, Bazoka 90mm là 54/154 khẩu, DKZ 57mm là
63/131 khẩu, DKZ 75mm là 17/102 khẩu, trọng liên 12,7mm là 54/180 khẩu. Về đạn,
Trung Quốc đồng ý viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 333.500 viên đạn súng
trường trong số 775.000 viên yêu cầu; con số tương ứng với đạn tiểu liên là
680.880/924.450 viên, đạn trung liên là 432.000/763.200 viên, đạn đại liên là
216.000/362.000 viên, đạn cối 60mm là 5.400/17220 viên, đạn cối 82mm là
2.700/6.000 viên, đạn cối 120mm là 480/960 viên, đạn Bazoka 90mm là 540/4620, đạn
DKZ 57mm là 1.440/7.860 viên, đạn DKZ 75mm là 2.160/9.180 viên, đạn trọng liên
12,7mm là 108.810/720.000 viên. Đặc biệt, Trung Quốc không đáp ứng toàn bộ nhu
cầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về các loại vũ khí có hỏa lực mạnh, sức công
kích lớn, gồm: 4.500 khẩu súng tiểu liên, 16 khẩu súng cối 120mm, 12 khẩu lựu
pháo 105mm cùng 1.200 viên đạn 105mm[8].
Không
chỉ hạn chế cam kết viện trợ, Liên Xô và Trung Quốc còn trì hoãn chuyển giao cho
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa số lượng hạn chế vũ khí, trang bị mà họ đã đồng ý viện
trợ trên đây. Cho đến hết tháng 3 năm 1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa nhận
được một chiếc ôtô nào từ phía Liên Xô; từ phía Trung Quốc, ngoài đạn dược,
hàng thông tin liên lạc, quân trang, quân lương, ôtô (thuê mượn), Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa cũng không nhận được toàn bộ số súng mà nước này đã cam kết[9].
Bên
cạnh việc dùng viện trợ quân sự, Trung Quốc và Liên Xô còn viện đến ngoại giao để
trực diện thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quan điểm đàm phán mềm dẻo hơn.
Vào cuối tháng 3 năm 1954, theo sáng kiến của Trung Quốc, các lãnh đạo Liên Xô
và Trung Quốc mời Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh và Matxcơva để bàn về vấn
đề Đông Dương và cuộc thương lượng dự kiến ở Geneva[10].
Chính
sách viện trợ hạn chế của Liên Xô và Trung Quốc khiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
gặp nhiều khó khăn khi bước vào trận Điện Biên Phủ. Pháo cao xạ và súng máy
phòng không không có phụ tùng thay thế khi bị hư hại nên nhiều khẩu không thể
chiến đấu liên tục. Trong đợt 1 của chiến dịch Điện Biên Phủ (từ ngày 13/3 đến
ngày 17/3), có 7 trong số 24 khẩu pháo 37 mm ở mặt trận Điện Biên Phủ bị hỏng;
trong đó, 1 khẩu bị hỏng hoàn toàn, ba khẩu khác trở lại tham chiến vào đợt hai
của chiến dịch (31/3 đến 26/4)[11].
Pháo lựu 105mm và súng cối 120 không có nhiều đạn nên Quân đội nhân dân Việt
Nam phải bỏ kế hoạch mở đầu chiến dịch khả dĩ phân tán hỏa lực đối phương, giảm
thương vong cho quân mình, đó là đồng thời đánh hai cứ điểm Him Lam và Độc Lập[12];
vào tháng 4 năm 1954, pháo 105mm của Quân đội nhân dân Việt Nam ở Điện Biên Phủ
lâm vào tình trạng thiếu đạn trầm trọng (có thời điểm, mỗi khẩu pháo 105mm chỉ
còn 2 đến 3 viên đạn) và buộc phải áp dụng chế độ bắn với cơ số đạn theo chỉ lệnh[13].
Trong hoàn cảnh đó, đề nghị họp ba bên của Trung Quốc và Liên Xô nêu trên được
phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp nhận. Tháng 4 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí
Minh bí mật tới Bắc Kinh và Mátxcơva. Tư liệu về cuộc gặp bí mật cấp cao ba nước
này cho đến nay vẫn chưa được công bố đầy đủ, chính thức. Nhưng chúng ta được
biết rằng, trong cuộc gặp ấy, tình hình Đông Dương, khó khăn của Quân đội nhân
dân Việt Nam ở mặt trận Điện Biên phủ, việc tăng cường trợ giúp của hai nước
Trung Quốc và Liên Xô cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là những vấn đề được đưa ra
bàn thảo. Về vấn đề tăng cường giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trung Quốc - người
“tài trợ” chính cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kháng chiến - thẳng thừng loại bỏ
khả năng công khai giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về quân sự nếu Mỹ trực tiếp tham chiến ở Đông Dương[14].
Thái
độ hòa nghị của các nước Bạn, nhất là của Trung Quốc, là điều mà Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa không thể không tính đến để tranh thủ thêm sự ủng hộ của họ cho sự
nghiệp kháng chiến của mình, trước mắt là cho chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi.
Do đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương nhượng
bộ ở mức độ nào đó để thúc đẩy giải pháp thương lượng cho vấn đề Đông
Dương. Ngày 1 tháng 5 năm 1954, trong một hướng dẫn nội bộ về Hội nghị Geneva, Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương: “Ta không đánh giá quá cao Hội nghị Geneva
nhưng không nên bỏ lỡ cơ hội, phải tranh thủ làm cho Hội nghị Geneva có thể bắt
đầu để đi đến các cuộc gặp gỡ khác”[15].
Dẫu thế, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn chưa nhất trí với giải pháp chia cắt đất
nước mà hai nước Trung Quốc và Liên Xô đưa ra. Ngày 14 tháng 5 năm 1954, trả lời
hãng thông tấn Antara (Indonesia), Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng định lập trường
đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là: “Thực sự độc lập, thống nhất và dân
chủ tự do”[16].
Sự điều chỉnh quan điểm đàm phán của phía Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa hẳn làm cho Liên Xô và Trung Quốc hài lòng hơn. Họ cởi mở trong vấn đề viện trợ vũ khí. Liên
Xô bỏ chủ trương không viện trợ vũ khí và quyết định giúp Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa một số súng, pháo, trong đó có 20 dàn hỏa tiễn phóng loạt sáu nòng, 32 khẩu
pháo cao xạ 37mm. Về phía Trung Quốc, nước này cũng quyết định tăng cường viện
trợ vũ khí cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi “tái chuẩn y” một số loại súng,
pháo mà họ vốn không đồng ý cung cấp như pháo lựu 105mm, súng cối 120mm, súng
tiểu liên 7,62mm. Đáng chú ý, theo tài liệu công bố gần đây từ phía Trung Quốc,
Mao Chủ tịch còn định “khẩn trương” giúp Việt Nam xây dựng hai sư đoàn pháo mặt
đất và pháo cao xạ[17].
Song, để thúc đẩy phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quan điểm đàm phán gần với
quan điểm của mình hơn nữa, hai nước tiếp tục chính sách trì hoãn chuyển giao những hàng đã cam kết viện trợ. Theo đó, từ
tháng 4 cho đến đầu tháng 5 năm 1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ nhận được hai loại vũ khí là súng DKZ 75mm và hỏa tiễn
phóng loạt H6. Súng DKZ 75mm có 19 khẩu,
hỏa tiễn phóng loạt H6 có 14 dàn với
tổng trọng lượng riêng súng, pháo là 22,5
tấn (số vũ khí này được đưa vào sử dụng ngay ở mặt trận Điện Biên Phủ)[18].
Trong khi đó, lượng lớn vũ khí mà hai nước Trung Quốc, Liên Xô đã cam kết viện
trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn “treo”
trên đất Trung Quốc. Tính đến ngày 20 tháng 5 năm 1954, ở Nam Ninh và Bình Tường
(Trung Quốc) lượng hàng (tính riêng súng) chưa chuyển giao cho Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là 90,5 tấn, gồm 38 khẩu lựu pháo 105mm, 16 khẩu cối 120mm, 32 khẩu
pháo cao xạ 37mm, 6 dàn hỏa tiễn H6, 27 khẩu trọng liên 12,7mm, 6 khẩu DKZ
75mm, 63 khẩu DKZ 57mm, 36 khẩu súng đại liên, 1000 khẩu súng tiểu liên
7,62mm….[19].
Như
vậy, sự khác biệt trong quan điểm đàm phán về vấn đề Đông Dương đã khiến Liên
Xô và Trung Quốc hạn chế viện trợ vũ khí, nhất là vũ khí hạng nặng, cho Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Viện trợ quân sự của hai
nước cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến dịch lịch sử này, theo đó, chủ yếu
là đạn dược, hàng quân nhu và xe cơ giới. Hàng viện trợ là súng và pháo có số
lượng và chủng loại không nhiều như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định trước đây[20].
Thực tế lịch sử này cho thấy viện trợ quân sự của Trung Quốc và Liên Xô cho Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến dịch Điện Biên Phủ là sự giúp đỡ có điều kiện,
thể hiện rõ sự “có đi có lại” trong quan hệ quốc tế mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp
đã đề cập đến trong Hồi ức Đường tới Điện
Biên Phủ[21].
Qua đây, chúng ta thấy rõ hơn sự “khó khăn” của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong
việc tranh thủ ủng hộ quốc tế; chúng ta cũng hiểu rõ hơn sự “trăn trở” và “khó
khăn” của các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi đi đến thỏa thuận ở Hội
nghị Geneva về Đông Dương năm 1954. Song, dù sao đi nữa, đánh giá sự giúp đỡ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa của Liên Xô và nhất là sự giúp đỡ của Trung Quốc trong chiến
dịch Điện Biên Phủ không thể chỉ nhìn trực diện vào những con số súng, pháo thuần
túy. Chính sự giúp đỡ của Trung Quốc và Liên Xô cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
trong hơn 3 năm trước đó đã góp phần quan trọng làm cho Quân đội nhân dân Việt
Nam có một thể chất mới. Trên cơ sở đó, đội quân này có đủ sinh lực và
trí lực đè bẹp “con nhím” Điện Biên Phủ như chúng ta đã thấy.
Abstract, PRC and Soviet’s military support to DRV
during Dien Bien Phu Campaign, 1954
The
months of Dien Bien Phu Campaign witnessed an increase in many kinds of
military supplies from PRC and Soviet to DRV. Nevertheless, because of DRV’s
disagreement with PRC and Soviet’s suggestions on dividing Vietnam into two
separate parts to come to an agreement at Geneva Conference, there was not a
rise in weapons. All weapons that DRV received during this campaign were 19
recoilless rifles and 14 Soviet-made multi rocket launchers.
So
it draws a conclusion that PRC and Soviet’s support to DRV during Dien Bien Phu
Campaign was conditioned by the aims the two countries pursued at Geneva
Conference, 1954. In spite of that fact, one can not play down the roles of PRC
and Soviet in helping DRV to win victory in the battle of Dien Bien Phu. It is
the supplies from PRC and Soviet during the years before this campaign had been
a significant contribution to modernizing the Vietnam people’s army to have a
new strength to smash the Dien Bien Phu fortress down.
[1]
Không ít nhà nghiên cứu cho rằng trong trận Điện Biên Phủ Trung Quốc và Liên Xô
đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa pháo lựu 105mm và pháo cao xạ 37mm. Về
điều này, chúng ta khẳng định rằng các vũ khí đó là hàng viện trợ của hai nước
bạn được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dùng hiệu quả trong trận Điện Biên Phủ, song
những vũ khí ấy không phải là hàng mà hai nước bạn viện trợ cho ta trong chiến
dịch Điện Biên Phủ bởi chúng là hàng viện trợ đã được các nước bạn cam kết từ
năm 1950 và trao cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước khi chiến dịch Điện Biên
Phủ được ấn định (6/12/1953). Xem PGS.TS. Phạm Mai Hùng, Sự giúp đỡ quốc tế đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của
nhân dân Việt Nam (1945-1954) trong Điện
Biên Phủ-Hợp tuyển công trình khoa học, Nxb Chính Trị Quốc gia, Hà Nội
2005, tr 479; Qiang Zhai, China and the
Vietnam wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, Chapel
Hill and London 2000, p 47.
[2]
Nhà sử học người Na Uy, Mari Olsen, cho biết, Liên Xô không muốn cấp vũ khí cho
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu, nhưng không đưa
ra giải thích gì về phát hiện đó. Trong khi đó, nhiều nghiên cứu ở Việt Nam cho
biết, trong trận Điện Biên Phủ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không được Trung Quốc
đáp ứng nhu cầu về đạn pháo 105mm và lý giải điều này là do phía Bạn “khan hiếm”
mặt hàng ấy. Giải thích này đã trở nên thiếu thuyết phục khi gần đây phía Trung
Quốc cho biết, vào đầu tháng 4 năm 1954, Mao Trạch Đông đã trù định “khẩn
trương” giúp Việt Nam xây dựng hai sư đoàn pháo mặt đất và pháo cao xạ[2].
Chắc chắn là, Mao không thể tính đến việc cấp pháo cho Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa khi mà Trung Quốc không có một năng lực tương ứng!. Về vấn đề viện trợ của
Liên Xô cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem Mari Olsen, Soviet-Vietnam relations and the role of China, 1949-1964, Changing
alliances, Routledge, London and New York 2006, p 36. Về vấn đề thiếu đạn
pháo 105mm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong trận Điện Biên Phủ và chủ trương
viện trợ tăng cường của Trung Quốc xem Nguyễn Huy Toàn, Vũ Tang Bồng…, Sự thật về những làn xuất quân của Trung Quốc
và Quan hệ Việt-Trung, Nxb Đà Nẵng 1996, tr 39-40; Bộ Tổng tham mưu, Ban Tổng
kết-Biên soạn lịch sử, Lịch sử Bộ Tổng
tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Hà Nội 1991, tr 706; Lịch sử pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam
(1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1991, tr 88; Qiang Zhai, China and the Vietnam wars, 1950-1975,
The University of North Carolina Press, Chapel Hill and London 2000, p 48.
[3]Hồ Chí Minh, Toàn tập, xuất bản lần thứ
ba, tập 8, 1953-1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tr 340.
[4]So
với năm 1952, năm 1953, số pháo mặt đất của quân Pháp tăng từ 522 khẩu lên 546
khẩu, số máy bay tăng từ 348 chiếc lên 460 chiếc, đơn vị xe tăng từ 8 trung
đoàn, 3 tiểu đoàn, 9 đại đội lên 9 trung đoàn, 3tiểu đoàn, 7 đại đội. Dẫn theo,
Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tổng kết chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vầ đế quốc Mỹ
(1945- 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 2003, tr 493; Số tiền Mỹ viện
trợ cho cuộc tái chiến Đông Dương của Pháp năm 1953 đạt 785 triệu đô la, thậm
chí, 28 nhân viên kỹ thuật hàng không Mỹ đã được điều đến Việt Nam để giúp bảo
trì máy bay cho quân Pháp. Dẫn theo William Conrad Gibbons, The US
government and the Vietnam war- Executive and Legislative roles and
relationships, part I, 1945- 1954, Princeton University Press, Princeton , New
Jersey 1986, p 135, 158.
[5]Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng,
toàn tập, tập 14, 1953, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, tr 556.
[6]Hồ Chí Minh, Toàn tập, xuất bản lần thứ
ba, tập 8, 1953-1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tr 369.
[7]Mari
Olsen, Soviet-Vietnam relations and the
Role of China, 1949-1964, Changing alliances, Routledge, London and New
York 2006, p 36-37.
[8]Bộ
Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Đề tài Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, 1945-1954, Phần thứ ba Viện
trợ vật chất của Trung Quốc cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, tài liệu lưu tại Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam số K-78, Hà Nội
2007, tr 72-73.
[9]Bộ
Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Đề tài Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, 1945-1954, Phần thứ ba Viện
trợ vật chất của Trung Quốc cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, tài liệu lưu tại Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam số K-78, Hà Nội
2007, tr 75-76.
[10]Qiang
Zhai, China and the Vietnam wars, 1950-1975,
The University of North Carolina Press, Chapel Hill and London 2000, p 51; Ilya
V. Gaiduk, Confronting Vietnam-Soviet
policy toward the Indochina Conflict, 1954-1963, Woodrow Wilson Center
Press, Stanford University Press, California 2003, p 22.
[11]Xem
Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử kỹ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 2002, tra 323-324; Lịch sử Quân chủng phòng không, tập I,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1991, tr 99; Thiếu thướng Hoàng Anh Tuấn, Chỉ đạo và thực hiện công tác kỹ thuật trong
chiến dịch Điện Biên Phủ, trong Điện
Biên Phủ-Hợp tuyển công trình khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2005, tr 343.
[12]Xem
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ-Điểm
hẹn lịch sử, Hồi ức, Hữu Mai thể hiện, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 2000,
tr 212. Về số lượng đạn pháo 105mm trong trận Điện Biên Phủ xem Nguyễn Huy
Toàn, Vũ Tang Bồng…, Sự thật về những làn
xuất quân của Trung Quốc và Quan hệ Việt-Trung, Nxb Đà Nẵng 1996, tr 39-40;
Bộ Tổng tham mưu, Ban Tổng kết-Biên soạn lịch sử, Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954),
Hà Nội 1991, tr 706; Lịch sử pháo binh
Quân đội nhân dân Việt Nam (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1991,
tr 88.
[13]Xem
Lịch sử pháo binh Quân đội nhân dân Việt
Nam (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1991, tr 119; Thiếu tướng Đỗ
Hữu Lê, Công tác hậu cần trong chiến dịch
Điện Biên Phủ trong Đại học Quốc giia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Điện Biên Phủ từ góc nhìn của
các nhà hoa học Việt-Pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005, tr 137; Bộ
Tổng tham mưu, Ban Tổng kết-Biên soạn lịch sử, Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954),
Hà Nội 1991, tr 783.
[14]Ilya
V. Gaiduk, Confronting Vietnam-Soviet
policy toward the Indochina Conflict, 1954-1963, Woodrow Wilson Center
Press, Stanford University Press, California 2003, p 23.
[15]Nguyễn
Đình Bin (chủ biên), Ngoại giao Việt Nam , 1945- 2000,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005, tr 141.
[16] Hồ Chí Minh, Toàn tập, xuất bản lần thứ
ba, tập 8, 1953-1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tr 475.
[17]
Qiang Zhai, China and the Vietnam wars, 1950-1975,
The University of North Carolina Press, Chapel Hill and London 2000, p 48.
[18]
Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Đề tài Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, 1945-1954, Phần thứ ba Viện
trợ vật chất của Trung Quốc cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, tài liệu lưu tại Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam số K-78, Hà Nội
2007, tr 75-76.
[19]Bộ
Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Đề tài Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, 1945-1954, Phần thứ ba Viện
trợ vật chất của Trung Quốc cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, tài liệu lưu tại Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam số K-78, Hà Nội
2007, tr 75-76.
[20]Theo
nhà sử học người Hoa Chen Jian, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung Quốc đã cấp
cho VNDCCH hơn 100 khẩu pháo, 3000 khẩu súng các loại, khoảng 2,400000 viên đạn,
hơn 60000 viên đạn pháo…Dẫn theo Chen Jian, Mao’s
China and The Cold war, The University of North Carolina Press, Chapel Hill
and London 2001, p 134-135; Theo George K. Tanham, năm 1953, Trung Quốc viện trợ
cho VNDCCH 400 đến 600 tấn hàng mỗi tháng. Vào những tháng đầu của trận Điện
Biên Phủ, lượng hàng Trung Quốc giúp VNDCCH tăng lên 1500 tấn mỗi tháng. Dẫn
theo George K. Tanham, Communist
revolutionary warfare-The Vietminh in Indochina, Fredrick A. Praeger
Publisher, New York 1961, p 69.
[21] Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên
Phủ, Hồi ức, Hữu Mai thể hiện,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 2001, tr 14.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!